Dưới đây là những câu chuyện về Bác Hồ kính yêu của chúng ta, mình sưu tầm được trên mạng. Ai có truyện gì về Bác Hồ thì hãy tiếp bước mình nhé! 1. Tôi hiến cả đời Tôi cho Dân tộc! "Buenos Dias,(Chào buổi sáng (tiếng Tây Ban Nha))Đồng chí muốn biết tình cảm của tôi đối với miền Bắc và đối với miền Nam phải không? Tôi yêu đồng bào ở miền Bắc cũng như yêu đồng bào ở miền Nam. Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi.Bác Hồ làm việc ở chiến khu Việt Bắc Bây giờ tôi sẽ trả lời những câu hỏi của đồng chí và đồng chí muốn ghi như thế nào thì tuỳ ý. Chúng ta sẽ nói chuyện thân mật với nhau về nhiều vấn đề.Ở Việt Nam có một câu nói phổ biến: miền Nam đi trước về sau. Câu nói này có nghĩa là miền Nam đấu tranh trước tiên chống quân xâm lược nước ngoài, nhưng miền Bắc lại được giải phóng trước, còn miền Nam sẽ được giải phóng sau.Miền Bắc được giải phóng 25 năm rồi nhưng suốt cả thời gian ấy, miền Nam không được hưởng lấy một ngày hoà bình.Ở miền Nam Việt Nam, những người dưới 25 tuổi không biết nghĩa chữ Tự do. Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi.Tôi nghĩ rằng tôi chưa làm trọn nghĩa vụ cách mạng của tôi đối với đồng bào miền Nanh mặc dù như vậy, tôi biết rằng đồng bào miền Nam vẫn yêu quý tôi cũng như tôi luôn luôn yêu quý đồng bào. Ở miền Nam, tôi không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh mà là Bác Hồ.Đồng chí hỏi rằng, theo ý kiến tôi, sức mạnh của nhân dân Việt Nam là ở chỗ nào? Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới, ví dụ như sự ủng hộ của nhân dân Cuba anh em.Đồng chí hỏi ý nghĩa của sự đoàn kết quốc tế? Sự đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn đối với chúng tôi. Đúng là trước hết chúng tôi phải dựa vào sức mình, song chúng tôi còn được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của nhân dân các nước khác. Và như vậy, chúng tôi vừa có cả sức mạnh của mình, vừa có cả sức mạnh của sự đoàn kết quốc tế. Chúng tôi thường tự nhủ: những người anh em Cuba ở ngay trước mũi bọn đế quốc Bắc Mỹ mà vẫn có thể đương đầu được với chúng, thì lẽ nào chúng ta, ở cách xa hàng nghìn dặm, lại không thể đấu tranh chống bọn Yăngki và đánh thắng chúng.Khi nhân dân Cuba ở phía bên kia quả đất tổ chức những cuộc mít tinh và biểu tình đoàn kết với cuộc đấu tranh của chúng tôi, việc đó động viên chúng tôi rất nhiều, nhưng chúng tôi thích nhất vẫn là những bài diễn văn của đồng chí Phiđen.Đồng chí thấy đấy, mặc dù chiến tranh rất ác liệt, nhân dân Việt Nam vẫn tiến lên. Điều này khó hiểu đối với người nước ngoài, nhưng nhân dân Cuba thì hiểu được, vì nhân dân Cuba cũng là nạn nhân của xâm lược bao vây, và trong hoàn cảnh đó, nhân dân Cuba vẫn tiến lên trong sản xuất và trong mọi lĩnh vực. Là một nước nhỏ và nghèo phải đương đầu với một nước lớn và giàu như Mỹ, chúng tôi vẫn giành được những thành tựu chưa từng có dưới những cuộc ném bom của bọn xâm lược Yăngki (Tức là Mỹ, gọi một cách khinh bỉ).Chẳng hạn, phụ nữ đã đạt được những tiến bộ lớn. Hiện nay, chị em đang làm những nhiệm vụ và giữ những cương vị lãnh đạo mà trước đây họ chưa từng đảm đang. Chúng ta có thể gặp nhiều phụ nữ hiện đang làm chủ nhiệm hợp tác xã. Đồng chí có biết không, chị em làm còn có kết quả hơn nam giới, vì cánh nam giới khi thu được thành tích trong lao động thì hay tổ chức liên hoan chè chén, có khi tiêu quá cả số tiền đã làm thêm được. Phụ nữ không làm những việc như vậy.Đồng chí đừng kể lại điều tôi vừa nói cho cánh nam giới biết đấy nhé, nhưng quả thật là phụ nữ làm việc rất tốt.Các cháu thanh niên cũng đạt được nhiều tiến bộ. Các cháu đã hoạt động với một tinh thần yêu nước cao trong chiến đấu và trong các đội giao thông vận tải. Ngay cả các cháu thiếu nhi cũng lớn lên nhiều trong đấu tranh. Thiếu nhi làm nghìn việc tốt. Có một phong trào mang tên như vậy. Chúng tôi có thể kể nhiều mẩu chuyện về tinh thần dũng cảm của các cháu thiếu nhi đã hy sinh thân mình để cứu người khác, trong khi đó ở Mỹ, số thanh niên, thiếu niên phạm pháp mỗi ngày một tăng.Đồng chí hỏi về những tiến bộ trong nông nghiệp?Trước ngày giải phóng, năng suất lúa cao nhất ở đây là ba tấn một héc ta. Hiện nay ở tỉnh Thái Bình chẳng hạn, năng suất lúa đã lên đến năm tấn một héc ta. Một số hợp tác xã nông nghiệp làm ruộng thí nghiệm với giống lúa do đồng chí Phiđen tặng, đã thu hoạch được mười tấn trên một héc ta.Đồng chí có biết không, tôi vừa được tin là gần đây có một số phụ nữ Việt Nam sinh ba. Đối với những trường hợp mà tôi được biết, tôi đều gửi quà cho các cháu bé.Trên mọi lĩnh vực, chúng tôi đều tiến bộ và trưởng thành trong hoàn cảnh khó khăn.Tôi muốn đồng chí chuyển về Cuba những lời sau đây: Tôi vô cùng yêu mến nhân dân Cuba. Tôi xin gửi lời chào đến toàn thể nhân dân Cuba, từ các đồng chí lãnh đạo đến các cháu thiếu nhi. Chúc các bạn luôn luôn mạnh khoẻ và thu được những thắng lợi ngày càng to lớn. Chúc các bạn thu được nhiều thành tựu trong mùa mía mười triệu tấn. Cho tôi gửi những cái hôn nồng nhiệt đến các cháu thiếu nhi và thanh niên. Đồng thời, tôi cũng chúc nhân dân các nước khác ở Mỹ La tinh tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc Yăngki. Về phần mình, chúng tôi sẽ tiếp tục đấu tranh và quyết chiến thắng. Chúng tôi đã nói như vậy và chúng tôi khẳng định lại như vậy.Hasta la vista". ( tạm biệt )Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.560-563 2. BÁC ĐÃ DẠY TÔI YÊU THƯƠNG CON TRẺ (Ghi theo lời cụ Lê Thị Hoan, Hội Phụ nữ Đống Đa, Hà Nội) Vào cuối tháng tư nǎm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ "5 tốt" toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã bạc. Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến. Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô "Bác Hồ muôn nǎm" vang lên bắt đầu từ những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phòng họp rộng lớn này. Tôi mừng vui và cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác lại nhắc đến tên tôi. Tôi run lên, thú thật tôi không còn tin ở tai mình nữa. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ! Bên cạnh tôi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên đoàn vǎn công quân đội ghé sát vào tai tôi nói khẽ : "Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!". Lúc đó tôi mới tin là không phải trong mơ, mà là sự thật. Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Tôi là một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ thủ công già, thế mà Bác lại quan tâm đến công việc làm của tôi! Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác... Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời tôi ghi tạc lời dạy của Người: "Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tǎng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc". Rồi Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào "5 tốt" vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái, Bác nói: "Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát: Nhiễu diều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa: Lọ là thân thích ruột rà Công nông thế giới đều là anh em. Đã là đại gia đình, thì sự sǎn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này chúng ta có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có công giáo dục mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều cố gắng làm được như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt. Hội trường hướng về phía tôi vỗ tay ầm vang. Lúc này tôi lúng túng quá, chẳng biết làm gì. Tôi cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại cǎn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền cần thiết thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhièu cho cuộc chống Mỹ cứu nước. Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi: -Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cô có làm không? Mọi người đều đáp: - Có ạ? Bác lại hỏi: - Bao giờ làm? - Dạ, họp xong về làm ngay. -Làm được bao nhiêu? - Thưa Bác làm khắp nơi ạ! Tôi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà Quế đi đến chỗ tôi ngồi, chị gọi: - Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác. Lúc đó tôi bàng hoàng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tôi cố nhấc bước lên nhưng chân tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác cầm tay tôi. Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì. Nhưng tôi toát mồ hôi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn sáng rực vào phía tôi. Như biết tôi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế: - Cụ ngồi xuống đây Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thǎm hỏi gia đình tôi. - Cụ ông có khỏe không? -Thưa có ạ! - Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không? Tôi rất kinh ngạc, thế ra mọi việc làm của tôi và của các cháu Bác đều biết. Tôi lần lượt thưa cùng Bác số cháu nơi tôi đỡ đầu có 30 cháu. Đó là những cháu chưa ngoan. Các cháu mảng học, ham chơi bời, trèo cây, đánh nhau, có cháu ǎn cắp làm mất trật tự trị an đường phố. Mẹ cha thì buồn phiền, nhà trường lo lắng. Tôi cũng thưa với Bác những khó khǎn bước đầu trong việc tập hợp các cháu lại, tổ chức cho các cháu vui chơi, lao động và học tập. Và đến nay tôi đã có một đóng góp nhỏ đã là giáo dục được 180 cháu trở thành những đội viên thiếu niên tốt, những cháu ngoan của Bác. Có 8 cháu được chọn đến Phủ Chủ tịch liên hoan cùng thiếu nhi Thủ đô, hè nǎm 1962. nhiều Cháu đã được đeo huy hiệu Đoàn. Bác lại hỏi thêm. - Các cháu đối với cụ thế nào? - Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng "bà nội". Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực hiện "5 điều Bác Hồ dạy". Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp: - Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể có giúp gì cụ không? - Dạ có ạ! - Cụ còn nguyện vọng gì nữa không? -Thưa Bác, được gặp Bác, biết Bác khỏe, là điều sung sướng nhất, và ước mong cho miền Nam giải phóng để chị em phụ nữ và đồng bào miền Nam được đón Bác, đó là nguyện vọng duy nhất của tôi, cùng là nguyện vọng của mọi người ạ. Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói: - Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua. Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: "Bác Hồ muôn nǎm?" và cứ vây lấy Người, không muốn rời Người nửa bước. Hôm ấy về nhà, tôi đem chuyện gặp Bác kể cho các cháu nghe, thuật lại lời dặn dò của Người cho chị em phụ nừ trong khu Hội phụ nữ Đấng Đa. Ai nấy đều vui mừng, nhất là các cháu chưa ngoan phải suy nghĩ nhiều. Tôi cũng lại nói cho mọi người ở khu phố tôi nghe. Lời kêu gọi thi đua của Bác đã được đǎng lại trên báo Đảng ngay ngày hôm sau "Trong lúc miền Nam chúng ta đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới thì phụ nữ ở phía bên kia sông Bến Hải đang cùng toàn thể đồng bào miền Nam anh dũng, hy sinh anh dũng chống đế quốc Mỹ cướp nước và bọn Việt gian bán nước. Tôi đề nghị Đại hội hoan hô đồng bào miền Nam anh hùng và chúc đồng bào miền Nam giành nhiều thắng lợi hơn nữa! Chính vì chúng ta đang xây dựng trong hoàn cảnh hòa bình, còn đồng bào miền Nam đang phải ngày đêm chiến đấu nên nhân dân miền Bắc chúng ta cần phải thi đua mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt". Thế là thành một cao trào thi đua "vì miền Nam" trong các cháu. Các cháu vừa học vừa làm tǎng giờ lấy tiền mua sách, xây dựng tủ sách kết nghĩa với các bạn thiếu niên Huế, Sài Gòn, kết nghĩa anh em và góp tiền mua vũ khí ủng hộ đồng bào miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Nhiều cháu đã trở thành những công nhân, cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp. Nhiều cháu đã lên đường giết giặc, như cháu Quách Vǎn Long cùng anh em bắn rơi máy bay Mỹ được Bác tặng huy hiệu. Cháu Phạm Vǎn Phương, Nguyễn Vǎn ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Vǎn Thanh, Nguyễn Vǎn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã về làm thợ, làm cán bộ như các cháu Hoàng Đình Nội, Cao Đắc Quý... các cháu cùng chúng tôi có chút ít thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, cửa Đảng. Và chính Bác là người dạy cho tôi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là "ông cụ trồng cây giỏi nhất nước". Và cũng vì yêu cây yêu người, Bác đã từng nói "Vì lợi ích mười nǎm trồng cây, vì lợi ích trǎm nǎm trồng người cho thế hệ mai sau. Ghi sâu lời Di chúc của Bác "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết", tôi xin hứa trước anh linh Người còn được ngày nào, tôi ra sức làm việc "bằng hai" để cho miền Nam chóng được giải phóng và để Bác vui lòng nơi chín suối. Những điều này đã được ghi lại từ 1969 - một ngày thu mưa sầu gió thảm lưu luyến tiễn Bác đi xa... Cụ Lê Thị Hoan vẫn còn sống, nǎm nay gần 90 tuổi. Tuổi cao, sức yếu, mắt kém, cụ không còn đủ sức dạy bảo các cháu nữa. Nhưng đã có người thay thế cụ. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp phụ nữ tiếp tay cùng cụ nhân hạt giống tình thương yêu của Bác gieo trồng khắp cả cánh đồng từ Bắc chí Nam. Cây tình thương yêu con trẻ của Bác Hồ mãi mãi lên xanh nay đã trở thành cây cổ thụ. 3. “BÁC HỒ” – TẠI SAO LẠI GỌI THẾ? J. La Cutuya (Pháp) Lotus - Source: DeviantArt.com“Bác Hồ”, định ngữ này được dùng ở khắp nơi. Thời gian cùng những thử thách làm Cụ thêm uy nghiêm. Cùng với năm tháng, khuôn mặt thân thuộc, có thêm một hình ảnh thành kính. Năm 1958 đó là hình ảnh một chiến sĩ gần 60 tuổi mà người ta treo ở khắp nơi, giữa các tấm ảnh lãnh tụ Liên Xô và Trung Quốc. Từ nửa thế kỷ nay, Cụ đã đào luyện và hướng dẫn cách mạng Việt Nam giành độc lập và thống nhất. Trên góc độ Việt Nam, đó là một Lênin đã sống lâu để chiến thắng chủ nghĩa quốc xã, một Găngđi đã rời bỏ guồng kéo sợi để xây dựng nhà máy và lãnh đạo phong trào phản kháng. Danh tiếng quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, uy tín của Cụ, sự kính trọng của mọi người đối với Cụ trong các giới cộng sản ngoài nước và trong phần lớn các nước “Không liên kết”, đọc thấy rõ ràng. Một người như Nêru đã coi Cụ là bạn. Khi Cụ tham gia hội nghị các đảng cộng sản ở Praha năm 1959, Cụ đã được bao quanh bởi một sự cảm phục khiến các chiến sĩ nước ngoài xúc động. Cụ Hồ, trước hết là một phong cách và một kiểu quan hệ với nhân dân. Lời ăn tiếng nói mà Cụ đã dùng để nói chuyện với thiếu nhi và chiến sĩ; với cán bộ và phụ lão, người ta đã trích dẫn đủ. Đây là một trong những chìa khóa để hiểu được nhân vật, văn chương kỳ diệu, rõ ràng. Người ta không thấy giọng văn này ở cả Giôdép Xtalin lẫn Uynxtơn Sớcsin hoặc Sáclơ Đờ Gôn. Còn Cụ Hồ thì có thể vươn tới giọng nói của lịch sử. Từ đó có bản chất khác thường của các mối quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam. Những mối quan hệ có thể tóm tắt trong hai chữ mà báo chí và bộ máy tuyên truyền của Việt Nam hằng gắn liền với cái tên ông Hồ: “Cụ” và “Bác”. “Bác Hồ” tại sao gọi thế? Người ta có thể đi tìm sự giải thích trong sự việc là, đối với các bạn chiến đấu trẻ hơn Cụ chừng 20 tuổi thì xưng hô như vậy là thuận hơn cả. Gọi bằng “Ông” thì quá xa. Còn chữ “Anh” chỉ dùng cho những người bằng vai phải lứa. Chữ “đồng chí” là dùng với đảng viên. Nhưng cũng phải đặt chữ “Bác” vào trong tập tục xã hội Việt Nam xuất thân từ gốc gác Đạo Khổng của nó. “Bác” là tiếng để gọi người anh của cha, người trong gia đình có tư cách và uy tín cao hơn cha. Khái niệm về tuổi tác là khái niệm rất quan trọng trong xã hội Việt Nam cũ. Người già đã và vẫn là nhân vật then chốt của một tổ chức xã hội lấy ruộng đất, làng mạc và gia đình làm cơ sở. Gia đình này được sắp xếp thứ bậc xung quanh bàn thờ tổ tiên. Đây là một di sản tinh thần cực kỳ sinh động mà cách mạng không hề đụng chạm tới. Việc trìu mến gọi bằng “Bác Hồ” là có tính chất gia đình, biểu thị lòng yêu quý, và càng biểu thị lòng kính trọng. Thứ bậc, họ hàng có thể không hoàn toàn còn hiệu lực như trước đây nhưng nó vẫn là sự tham chiếu điển hình. Trích từ sách: Người là Hồ Chí Minh, (Tập hồi ký), Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 1995. 4. BÀI HỌC CỦA THẦY MO. Bà Viễn, con gái cụ Pù Sấn, người Nùng ở Cao Bằng kể chuyện:Hồi đầu năm 1942, do yêu cầu công tác gấp, Bác Hồ đã phải quyết định mạo hiểm đi ban ngày trên con đường từ Nước Hai về Pác Bó dù phải qua đồn dõng Đôn Chương, mà người dẫn đường, bảo vệ chính là anh Pù Sấn, ngày ấy Pù Sấn là một chiến sĩ cách mạng cốt cán tại địa phương.Sau khi đã tính toán và quyết định, Bác lập “kịch bản” rồi đích thân “đạo diễn” cuộc hành trình. Pù Sấn đóng vai người con đi mời dẫn ông thầy mo về cúng cho mẹ vợ bị con ma nó hành đang ốm nặng. Pù Sấn phải nhờ bố đi mượn trang phục và đồ cúng lễ của thầy mo cho Bác sắm vai. Trước khi đi Bác bảo Pù Sấn cùng Bác hóa trang tập thử vài lần cho quen. Bác còn đặt ra giả thiết những tình huống bất trắc trên đường đi để xử lý ra sao hòng che mắt địch. Bác gợi ra rất tỉ mỉ, chu đáo và nhắc nhở Pù Sấn phải thật bình tĩnh không để lộ trên nét mặt sự lo lắng hoang mang, cử chỉ luống cuống dễ bị địch nghi ngờ phát hiện.Hai bác cháu lên đường. Khi chỉ còn cách đồn Đôn Chương chừng vài trăm mét, Bác bỗng dấn bước đi lên ngang sát Pù Sấn hỏi một số việc có ý kiểm tra tâm trạng tinh thần, và nhắc nhở cách ứng xử với bọn lính gác. Bác hỏi Pù Sấn :- Chú nhớ vai kịch không ?- Thưa Bác, cháu nhớ mà!- Nhớ là người làm gì ?- Đi đón thầy Mo về cúng cho mẹ vợ ốm nặng.Diễn biến trên đường đúng như “kịch bản”. Hai bác cháu vừa bước tới trạm gác thì một tên lính dõng mặt mày bặm trợn quát :- Hai người này đi đâu ?Pù Sấn nhanh nhảu trả lời :- Mình đi mời thầy mo về nhà cúng cho mẹ vợ mình ốm đấy!- Có thật không ?- Thật lắm mà!Một thằng chạy ra bới tung gánh đồ của Pù Sấn thấy có đủ đồ nghề quần áo, sách kinh, giấy sớ, bùa, dấu ấn gỗ… nên chúng cho đi. Nhưng Pù Sấn vừa cất gánh lên vai thì thằng Tòng, xã đoàn trưởng cũng vừa đi tới, nắm vai đòn của Pù Sấn hí hửng nói :- May mắn quá mà! Vợ tao cũng đang ốm, phải nhờ ông thầy Mo này vào nhà cúng ngay cho vợ tao khỏi bệnh thôi!Tình huống thật khó xử. Nếu nhận lời thì sẽ kéo dài thời gian làm lỡ việc của Bác, nguy hiểm hơn là nhỡ vô tình để lộ ra thì khác nào cá đã vào trong lưới. Nhớ lời Bác dặn trước khi đi là phải thật bình tĩnh, sáng suốt ứng phó, Pù Sấn nghĩ ngay ra cách từ chối khéo :- Không được đâu mà! Mẹ vợ mình ốm nặng lâu lắm rồi, phải đưa thầy mo về cúng ngay thôi! Sau đó, mình sẽ dẫn đến cúng cho vợ xã đoàn trưởng.Anh Pù Sấn còn nghĩ ra màn kịch ghé sát tai lão Tòng :- Mình nói theo cái bụng nghĩ nhé : Ông thầy mo này không giỏi lắm đâu, chiều ý mẹ vợ mà phải đi mời thôi!Tên Tòng chưa tin lời Pù Sấn nói nên vỗ vai Bác hỏi chuyện thăm dò. Không hẹn mà hợp ý nhau, Bác Hồ cũng diễn xuất rất khéo làm ra vẻ bị vỗ vai bất ngờ giật mình, với điệu bộ ông thầy mo có đôi tai nghễnh ngãng, giọng ề à, khi nói Bác cố ý để lộ bộ răng nhe xỉn ám khói thuốc y chang một ông già người địa phương mặc bộ quần áo chàm xộc xệch, đầu quấn cái khăn cũ lôi thôi, dáng vẻ ngờ nghệch nên nó cũng không thèm mời nữa. Sau này anh Pù Sấn mới biết Bác đã dùng cơm nếp, nhựa sung hóa trang bộ răng bẩn đó để che mắt địch.Bác và anh Pù Sấn về tới bản Nà Mạ ở lại tránh địch đang quây càn rồi đi tiếp về hang Pác Bó. Dù được anh Đức Thanh báo cáo có anh Kim Đồng đi trước thăm dò địch tình rồi, Bác vẫn chưa an tâm lắm. Bác cho gọi anh Kim Đồng tới vừa là để lần đầu biết mặt làm quen, vừa là để Bác trực tiếp hỏi về tình hình địch có thực đã rút hết vùng quanh Pác Bó chưa.Sau khi trực tiếp hỏi chuyện anh Kim Đồng, Bác đã nói với anh Đức Thanh:- Chú bé này có nét linh lợi, gan dạ, hay lắm!Qua câu chuyện này, chúng ta càng thấy rõ tác phong làm việc của Bác Hồ ngay từ ngày đầu cách mạng. Bác đã rất cẩn thận chu đáo trong khi sử dụng cán bộ, không những chỉ giáo dục, bảo ban, bày vẽ kỹ càng, mà còn luôn theo dõi, kiểm tra, nhắc nhở khi thi hành công vụ.Theo Kể chuyện Bác Hồ kính yêu - http://thieunientienphong.vn 5. Bữa cơm gia đình Khoảng cuối năm 1951, trong một lần đến thăm và nói chuyện với học viên lớp chính trị của quân đội ở Việt Bắc. Bác bảo anh Phương – chồng tôi là cán bộ phụ trách lớp. - Chiều nay, chú cho Bác ăn bữa cơm, vì nói chuyện xong, tối, Bác còn phải đi họp với một chi bộ ở Định Hóa. - Bấy giờ tôi cũng làm văn thư ở Hiệu bộ, nên anh Phương cử người nhắn tôi chuẩn bị. Công việc của Bác xong xuôi, Bác về đến cơ quan thì cơm nước cũng đã sẵn sàng. Sinh hoạt ở rừng còn thiếu thốn, kham khổ. Anh em muốn “bồi dưỡng” cho Bác, để Bác khỏe, nhưng lại sợ. Nhưng rồi cũng quyết định thịt một con gà “tăng gia” kiếm ít măng rừng làm cơm mời Bác. Bác ngồi vào bàn ăn, bảo anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), hai vợ chồng tôi và đồng chí cảnh vệ cùng ăn. Tôi cứ một mực từ chối: - Thưa Bác cháu ăn rồi. Mời Bác và các anh, các chú xơi cơm đi… Mãi sau, Bác mới đồng ý và bắt đầu dùng cơm. Vào bữa cơm Bác nói: - Cô cho Bác xin quả ớt. Tôi ngại quá, bèn nói thật: - Thưa Bác, chúng cháu sợ Bác ăn ớt có hại sức khỏe nên không dám cho vào măng nấu ạ. Bác quay sang anh Phương: - Chắc chú lệnh cho cô văn thư chứ gì. Thế là chú quan liêu rồi… Anh Văn chỉ tủm tỉm cười nói thêm: - Ớt là “vi-ta-min-ơ” của Bác đấy. Bữa cơm của Chủ tịch nước giản dị, vui vẻ, thân mật như bữa cơm trong một gia đình ấm cúng. Cơm nước xong Bác hỏi tôi: - Cô thư ký được mấy cháu, tên là gì? Anh Phương đỡ lời tôi: - Thưa Bác, được ba cháu gái đặt tên là Thu Thủy, Thu Thảo, Thu Vân. Bác cười hiền từ, nói: - Tôi có hỏi chú đâu! Sao đặt tên “văn chương” thế! Gọi là “Thu Ngô, Thu Khoai, Thu Sắn” có hay không? Mọi người cùng cười vui vì biết Bác liên hệ với phong trào tăng gia sản xuất, trồng thêm màu ngô, khoai, sắn… sản xuất nhiều lương thực đóng thuế nông nghiệp, nuôi bộ đội đánh giặc, mà Chính phủ mới phát động. Lát sau, Bác lại bảo: - Bác nói vui thế thôi. Những cái tên Việt Nam ấy rất đẹp. Chưa kịp nghỉ ngơi, Bác đã chuẩn bị lên đường, Bác đeo balô đi trước, hai đồng chí cảnh vệ, anh Văn tiếp bước sau Bác. Mới đông mà sương chiều Việt Bắc đã xuống rất nhanh tụ thành những đám mây lụa mỏng trắng bìa rừng. Chúng tôi nhìn theo Bác, ung dung, khoan thai như đi dạo cảnh thiên nhiên hùng vĩ, ngỡ ngàng như vừa được qua một giấc mơ đẹp trong một bữa cơm gia đình. 6. CÁCH NGƯỜI CHINH PHỤC CẢ MỘT DÂN TỘC Hình ảnh Hồ Chủ tịch trong trang phục kaki giản dị, đi đôi dép cao su và lối ngoại giao thân thiện, gần gũi trong lần gặp bất ngờ khiến cựu Đại sứ Hungary không thể quên. Ông là một trong những người được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần trong nhiệm kỳ ngoại giao tại Hà Nội, Vị khách đi đôi dép cao su Hà Nội, năm 1957. Alfred Almasi được bổ nhiệm công tác ngoại giao tại Hà Nội. Một ngày, cùng với các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Hungary, ông bất ngờ được đón một vị khách đặc biệt không hẹn trước. "Đó là một ngày giống như tất cả những ngày khác ở Đại sứ quán của chúng tôi, lúc trời xẩm tối chúng tôi thường ngắm nhìn những bông hoa thơm trong vườn, đột nhiên có một người đàn ông bất ngờ xuất hiện trong vườn, ngay trước mặt tôi, trong trang phục kaki đơn giản và đi đôi dép cao su, theo sau là mấy chiến sĩ Việt Nam đang mỉm cười. Tôi không thể thốt lên lời, nhưng cùng với sự bất ngờ lớn, tôi lập tức nhận ra ngay, đó chính là Người - Hồ Chí Minh", ông kể. Sau những lời chào hỏi thân tình, Đại sứ mời Người vào "phòng khách VIP" của Đại sứ quán. Tất cả các cán bộ, nhân viên ngoại giao của Đại sứ quán ngồi vây quanh chiếc bàn tròn, đầy "vui mừng và xúc động". Họ mang trà và rượu vang Hungary mời vị khách đặc biệt. Câu chuyện vào đầu bằng sự giản dị, mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một bộ phận quan trọng trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là thế giới quan và đường lối đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Ảnh minh họa: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Thủ tướng Ấn độ J.Nêru ngày 17/10/1954. “Tôi vừa đi qua phố Điện Biên Phủ và nhìn thấy lá cờ 3 màu của Đại sứ quán, tôi quyết định vào thăm các bạn Hungary của chúng tôi”, Hồ Chủ tịch nói. Tiếp đó Người tiếp tục câu chuyện bằng tiếng Pháp: “Ai trong số các bạn có thể nói được tiếng Pháp?”. Với niềm vinh dự lớn, Alfred Almasi trả lời: “Có cháu ạ”. “Vậy còn tiếng Nga?” - Người hỏi bằng tiếng Nga, rất nhiều người đã trả lời có. Và Hồ Chí Minh tiếp tục trò chuyện bằng tiếng Nga, thân mật trò truyện bằng cả tiếng Anh, quan tâm, hỏi thăm sức khỏe, gia đình của các cán bộ trong Đại sứ quán. Thưởng thức rượu vang đỏ Hungary, Chủ tịch Hồ Chí Minh hóm hỉnh nhận xét rằng thứ rượu vang này gần giống với rượu vang Bordeaux, Pháp Kết thúc chuyến thăm một cách khéo léo, Người nói bằng tiếng Việt với thông điệp chuyển tới cả nhân dân Hungary: “Tôi đến để nồng nhiệt chào đón các bạn với nhiệm vụ mới tại Việt Nam, cảm ơn tình đoàn kết của nhân dân Hungary với nhân dân Việt Nam anh em và với sự nghiệp chính nghĩa của chúng tôi”. Nhớ lại cuộc gặp không hẹn trước năm xưa, cựu Đại sứ Hungary chia sẻ : "Chúng tôi thật sự cảm động về việc Hồ Chí Minh đã đích thân đến thăm Đại sứ quán chúng tôi và cách thức Người tiếp cận với người dân, cách Người chinh phục người dân, và cách Người chinh phục cả một dân tộc và dư luận quốc tế về sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam". "20 năm theo dấu chân Hồ Chí Minh" Chưa từng có cơ hội gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng bà Dominique de Miscault, họa sĩ, Tổng biên tập Tạp chí Triển Vọng (Pháp) đã "theo dấu chân Hồ Chí Minh từ 20 năm nay" để tìm hiểu, khám phá con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc của Người. Trong quãng thời gian này, bà đã dành 7 năm cộng tác trong công việc sưu tầm về Hồ Chí Minh với bà Nguyễn Thu Hà, một trong những nhân viên lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh. . Tháng 5/2006, Bảo tàng Hồ Chí Minh quyết định tổ chức một cuộc triển lãm về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pavillon. Bà đã được mời tham gia trong ban tổ chức triển lãm. Và để chuẩn bị, vị Tổng biên tập này trước đó đã giành thời gian đi khắp nước Pháp trong nhiều tháng ròng để thu thập những bức ảnh ở những nơi mà Hồ Chí Minh đã từng đặt chân. Có ba dấu mốc thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu lại Pháp, đó là năm 1911 - khi Người thực hiện “hành trình khai phá”; năm 1917 khi học tập và hoạt động cách mạng, và năm 1946 viếng thăm với tư cách Hồ Chủ tịch. Lịch sử ghi lại hiện thực. Song nhà báo người Pháp này nói Hồ Chí Minh vẫn còn là một bí ẩn đối với phần lớn người dân Pháp. Bà đặt câu hỏi "Thật sự Người là ai?, từ đâu tới?", "Chính xác Người đã làm những gì? Những tài liệu về chủ nghĩa cộng sản luôn nằm trong vali của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đàn ông Đông Dương này phải chịu đựng nhiều gian khổ, hy sinh cả cuộc đời mình cho cách mạng. Và chính nhờ vào sự nhạy bén và lòng quyết tâm cao độ, Người đã mang lại nền độc lập cho dân tộc mình". Hơn một năm nay, cùng với công việc chuẩn bị cho một cuộc triển lãm ở Huế, bà Dominique de Miscault đã thực hiện một bộ phim mang tên “Hồ Chí Minh và nước Pháp”, dự kiến ra mắt tháng 10 tới. Nguồn "VietNamNet" 7. ĐÊM ĐÓ, CHÚNG TÔI LÀM BÁC MẤT NGỦ ! Nếu tôi nhớ không sai thì đó là vào dịp Tết Âm lịch năm 1948, cách đây đúng 48 năm. Trước đó, năm 1947, giặc Pháp đã huy động thủy, lục, không quân càn quét, đánh phá dữ dội các huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hoá (Thái Nguyên), thị xã Bắc Cạn nhằm triệt tiêu các cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ ta trong ATK. Nhưng chúng đã bị quân ta đánh lại, bị thất bại thảm hại. Mừng chiến thắng hào hùng, Bác tổ chức mừng Tết, đón xuân cùng đồng bào và một số cán bộ chủ chốt trong ATK. Có mặt chung quanh Bác trong mấy ngày Tết đó là các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Lê Văn Hiến, Trần Duy Hưng, Phan Mỹ, Trần Công Trường và tôi (Lê Giản). Suốt mấy ngày Tết, Bác cùng chúng tôi thường buổi sáng thì đi chúc Tết đồng bào, chiều và tối thì ở nhà ăn uống, kể chuyện làm thơ, hát hò vui xuân. Mỗi đêm Bác chỉ định hai đồng chí ngủ cùng phòng với Bác. Bác thường kể chuyện rất hay nhưng chúng tôi bảo nhau đêm không được nói chuyện để Bác ngủ cho yên. Đêm mùng Ba, anh Trần Công Trường và tôi được chỉ định ngủ cùng phòng – hay gọi cho đúng là cùng nhà với Bác – Bác nằm một giường một bên, hai chúng tôi nằm một bên, ở giữa có đống lửa sưởi ấm đỏ rực! Trước khi lên giường chúng tôi chúc Bác ngủ ngon – Bác cười hiền từ bảo chúng tôi: “Đêm nay ngủ với Công an (tức là tôi, Lê Giản, Tổng giám đốc Nha Công an) và Toà án (tức là anh Trần Công Trường, Thứ trưởng Bộ Tư pháp) ở bên cạnh, vòng ngoài lại có anh em an ninh (cảnh vệ) và nhân dân địa phương canh phòng, Bác nhất định vững tâm, yên giấc, còn các chú cũng cứ ngủ cho say để sáng mai về cơ quan làm việc cho tốt, không ngủ gà ngủ gật dông cả năm đấy”. Đúng như lời Bác đã bảo, đêm ấy chúng tôi đánh một giấc ngon lành. Khi mở mắt ra thấy trời đã sáng rõ và thấy… Bác đang ngồi sưởi bên đống củi lửa rực hồng. Chúng tôi vội tụt xuống giường ra chào và hỏi sao Bác dậy sớm thế. Bác cười và nói vui: “Cả đêm, các chú người thì “xay lúa” người thì “giã gạo” ầm ầm. Bác phải thức chụm lửa sưởi”. Nghe Bác nói, lòng dạ chúng tôi bùi ngùi áy náy như thế nào chắc ai cũng dễ nhận thấy. Sau này, các đồng chí cảnh vệ cho biết: “Chúng em đi tuần qua nhà, nghe tiếng các anh ngáy và nghiến răng to quá, nhìn vào thấy Bác đang lúi húi chụm lửa, gạt than sưởi ấm. Biết Bác không ngủ được, chúng em vào khẽ nói: “Bác để chúng cháu mời các anh sang nhà bên để Bác nghỉ cho yên ắng, tĩnh mịch” nhưng Bác không đồng ý. Bác nói se sẽ: “Các chú ấy tuổi còn đang trẻ, bận rộn cả năm, ít khi được ăn no ngủ kỹ, chuyển chỗ có thể mất giấc ngủ ngon. Còn Bác tuổi già thức đêm quen rồi, mai ngủ bù không sao đâu, các chú cứ yên tâm”. … Đấy, Bác của chúng ta, Hồ Chủ tịch của chúng ta là người như thế đấy! (Theo lời kể của Lê Giản, trích từ sách Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, H.2006) 8. Lịch sử ba bộ quần áo của Bác. Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai bộ quần áo được anh em giúp việc đặt tên là “bộ kháng chiến”, “bộ kaki vàng”. “Bộ kháng chiến” được may từ khi Bác lên Việt Bắc và Bác đã mặc suốt trong những năm kháng chiến chống Pháp. Ngoài hai bộ trên, Bác còn một bộ quân phục màu xanh, một bộ lụa Hà Đông màu gụ. Mùa rét, Bác mặc bên trong một áo len, khoác ngoài một áo “ba-đờ-xuy” chiến lợi phẩm dài quá đầu gối, quà của một đơn vị tặng Người. Trong chiến dịch Biên giới 1950, khi đến thăm thương binh, thấy một chiến sĩ bị mất máu nhiều, rét, Bác đã cởi chiếc “ba-đờ-xuy” này đắp lên người đồng chí đó. Trên chiếc áo quân phục có một miếng mạng ở vai áo phải, “kỷ niệm” một đầu nhọn chiếc đinh đòn gánh của một cụ già dân công phục vụ chiến dịch Biên giới, qua suối, trượt chân ngã đã làm toạc vai áo Bác. Thường khi đưa áo đi giặt, Bác nhắc: - Giặt xong các chú xem áo có chỗ nào sờn thì sửa lại cho Bác, đừng đem nhờ các cô ở cơ quan. Các cô hãy còn bận nhiều việc, để dành thì giờ cho các cô chăm sóc dạy dỗ các cháu nhỏ… Bác tặng khăn quàng Đầu năm 1964, đồng chí Xu-pha-nu-vông và đồng chí Kay-sỏn Phom-vi-hẳn sang Hà Nội thăm Bác. Hai đồng chí và Bác gặp nhau, tình cảm Lào – Việt vô cùng thắm thiết. Đồng chí Xu-pha-nu-vông ôm chặt Bác, hai bàn tay Hoàng thân vỗ nhẹ vào lưng Bác một hồi lâu. Gió mùa đông bắc mới về lùa hơi lạnh vào phòng khách. Thấy Bác húng hắng ho, đồng chí Kay-sỏn nói: - Bác không được khỏe? Bác lảng sang chuyện khác: - Ở Lào không rét như ở Việt Nam. Các đồng chí có lạnh lắm không? Sao hai đồng chí lại không choàng khăn cổ? - Thưa, hôm sang Hà Nội, trời còn ấm… Bác đứng dậy mở tủ lấy ra hai khăn quàng mới, rồi nói: - Đồng chí Xu-pha-nu-vông và tôi là người già, nhiều tuổi, mỗi người một khăn quàng mới… Bác tháo chiếc khăn đang quàng, đưa đồng chí Kay-sỏn: - Bác trao khăn này để đồng chí Kay-sỏn quàng. Trên đường về, đồng chí Xu-pha-nu-vông nói: - Chà, Bác với tôi mỗi người một khăn mới. Mới như nhau. Đồng chí Kay-sỏn thì gật gật đầu: - Còn tôi, tôi “kế thừa” chiếc khăn quàng của Bác… Sưu tầm 9. NHỮNG LẦN KỶ NIỆM SINH NHẬT SÂU SẮC NHẤT TRONG CUỘC ĐỜI BÁC Cách mạng tháng 8-1945 thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Kể từ ngày đó đông đảo đồng bào trong nước và bè bạn quốc tế biết đến Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam và biết đến ngày 19-5 là sinh nhật của Bác. Và cũng từ đó, vào những dịp sinh nhật Bác, đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế lại gửi tới Người những bó hoa tươi thắm và những lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Bác Hồ và các cháu thiếu nhi vui liên hoan văn nghệ nhân ngày Quốc tế thiếu nhi, tháng 5/1969. Ảnh tư liệu.Kỷ niệm sinh nhật Bác lần đầu tiên Năm 1946 là năm kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ lần đầu tiên. Sáng ngày 19-5-1946, tại Bắc bộ Phủ, các đại biểu thiếu nhi thủ đô, tự vệ, hướng đạo và hơn 50 đại biểu Nam Bộ đã đến chúc mừng sinh nhật Bác. Xúc động trước tình cảm của đồng bào, đồng chí, Bác nói: "Tôi chưa xứng đáng với sự săn sóc của đồng bào, vì Tôi hãy còn là một Thanh niên, tuổi có 56 chưa đáng tuổi được đồng bào chúc thọ. Chỉ vì nhà báo nào biết đến ngày sinh của tôi mà đem ra làm bận rộn đến đồng bào. Từ trước tới nay tôi đã là người của đồng bào, thì từ nay về sau Tôi vẫn thuộc về đồng bào. Tôi quyết giữ lòng trung thành với tổ quốc. Tôi xin hứa với đồng bào gắng sức làm việc, nhưng Tôi hy vọng vào sự cộng tác chặt chẽ của đồng bào. Việc nước là lớn, không ai có thể làm một mình nổi. Tôi mong rằng ngày này năm sau các Đồng bào sẽ làm cho nước Việt nam dân chủ cộng hoà cường thịnh hơn. Hôm nay đồng bào cho tôi nhiều hoa bánh. Những thứ đó đáng giá cả. Nhưng xin đồng bào nghĩ đến các đồng bào nghèo khó, hơn là hao phí cho tôi"[1]. Cũng trong ngày 19-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp một số đoàn thể đến chúc mừng sinh nhật Người. Khi nghe giới thiệu có Uỷ ban đời sống mới đến chúc thọ, Bác liền hỏi các đại biểu của Uỷ ban: - Đời sống mới là ai? - Chú cho tôi biết cuộc vận động đời sống mới đến đâu rồi? Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng thay mặt đoàn thưa với Bác: Chúng tôi đã bắt đầu bằng sự chia ra các ban nghiên cứu, tổ chức v.v.. Nhưng công việc chính là định rõ cái hướng cho đời sống mới. Mấy khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” chúng tôi xét ra vừa không đủ, vừa cổ… - Cổ! Lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ ăn cũng cổ à? Bác tranh luận. Không khí buổi chúc mừng sinh nhật Bác trở nên náo nhiệt, vui vẻ. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng liền thưa: Uỷ ban vận động đời sống mới đã định rõ ba nguyên tắc cho đời sống mới là: Dân tộc, dân chủ, khoa học. Bác liền nói: - Hay lắm, nhưng mình phải xem đồng bào bây giờ cần gì? Dân quê đã mấy người hiểu được thế nào là dân chủ, khoa học? Tôi hỏi chú, chú đi vận động đời sống mới thì chú làm gì trước? Mọi người nhìn nhau, bối rối trước câu hỏi của Bác. Bác liền lấy tay vỗ vào bụng và nói: - Trước hết là cái này. Dân chúng cần cái này trước hết, phải ăn đã, chú không ăn gì thì chú đi tuyên truyền được không? mà muốn ăn thì phải làm gì? phải làm việc phải siêng năng, thế là “cần” đấy. Bác cũng nhắc nhở: Muốn cho cuộc vận động được thực hiện được đến nơi đến chốn và có kết quả thì khẩu hiệu phải thiết thực, người đi vận động quần chúng phải làm gương [2]. Cùng ngày 19-5-1946, lực lượng Thanh niên Thủ đô đã tổ chức tuần hành thị uy mừng sinh nhật Bác Hồ. Kỷ niệm sinh nhật kháng chiến Cách mạng tháng Tám thành công chưa được bao lâu, thực dân Pháp lại âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Người cùng Trung ương Đảng, Chính phủ trở lại căn cứ địa Việt Bắc tiếp tục lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp. Chặng đường trường kỳ kháng chiến đã ghi dấu chân của Bác qua Hà Đông, Sơn Tây, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên... hoà cùng với những khó khăn vất vả và sự hy sinh của đồng bào, đồng chí trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Những dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc vô cùng đơn giản nhưng đầm ấm và đầy ý nghĩa, với những lời chúc mừng của đồng bào, đồng chí và những bó hoa rừng của những người phục vụ. Sinh nhật năm 1948 là kỷ niệm sinh nhật không bao giờ quên đối với Bác. Trước sinh nhật Bác vài ngày, đồng chí Lộc (tên thật là Nguyễn Văn Ty) - người phục vụ nấu ăn cho Bác nhưng cũng là người đồng chí, người bạn thân thiết đã cùng Bác hoạt động ở Thái Lan, Trung Quốc rồi sau đó theo Bác trở về nước tham gia hoạt động cách mạng - vừa mới qua đời bởi căn bệnh sốt rét ác tính. Vì vậy, kỷ niệm sinh nhật Bác diễn ra lặng lẽ. Sáng sớm ngày 19-5-1948, các đồng chí phục vụ đã mang một bó hoa rừng đến chúc mừng sinh nhật Bác, chúc Bác mạnh khoẻ sống lâu. Nhận bó hoa rừng và những lời chúc mừng của các đồng chí phục vụ, Bác rất xúc động rơm rớm nước mắt: - Bác cám ơn các chú. Bác đề nghị dành bó hoa này cùng đến viếng mộ đồng chí Lộc. Thế là lễ mừng sinh nhật của Bác Hồ năm ấy, Bác đã dành để nói chuyện về một tấm gương trung thành với Đảng, suốt đời làm việc cho Đảng, không tính toán cá nhân, đòi hỏi địa vị. Kỷ niệm sinh nhật giải phóng Các chiến sỹ Điện Biên mừng sinh nhật Bác (19.5.1954) --- Hàng trên: thiếu tướng Văn Tiến Dũng, thiếu tướng Hoàng Văn Thái, dc Nguyễn Quang Thuận, dc Hoàng Đăng Minh, dc Lê Thế Nhận, dc Bạch Ngọc Giáp, dc Sáng --- Hàng dưới: dc Lê Liêm, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bác Hồ, dc Trường Chinh, cậu bé Đặng Việt Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đầu tháng 5-1954, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng ở chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra đúng vào dịp sinh nhật Bác Hồ kính yêu, là món quà vô giá và đặc biệt nhất của quân và dân ta kính dâng lên Bác nhân kỷ niệm ngày sinh của Người. Có lẽ đây là kỷ niệm sinh nhật vui và hạnh phúc nhất trong cuộc đời Bác Hồ. Hoà cùng với niềm vui chung của quân và dân ta trong chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác viết thư gửi cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ: "Gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ. Trước hết Bác gửi lời thân ái thăm các chú thương binh. Toàn thể các chú cũng như cán bộ và chiến sĩ ở toàn quốc đã quyết tâm tranh được thắng lợi lớn để chúc thọ Bác. Bác quyết định khao các chú. Khao thế nào tuỳ theo điều kiện, nhưng nhất định khao. Thế là Bác cháu ta cùng vui. Vui để cố gắng mới, để khắc phục khó khăn mới và để tranh thắng lợi mới. Bác và chính phủ định thưởng cho tất cả các chú huy hiệu chiến sĩ "Điện Biện Phủ". Các chú có tán thành không? Bác dặn các chú một lần nữa: chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch, phải luôn luôn sẵn sàng làm tròn nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho các chú. Bác hôn các chú Bác Hồ Chí Minh"[3] Cũng nhân dịp sinh nhật, Bác đã chiêu đãi những chiến sĩ tiêu biểu trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Sáng ngày 19-5-1954 đoàn đại biểu gồm 5 chiến sĩ tiêu biểu có công nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ được về báo cáo thành tích với Bác và dự lễ sinh nhật của Người. Được vinh dự gặp Bác, các chiến sĩ ai cũng hồi hộp, xúc động. Bác khen ngợi và hỏi về đời sống chiến đấu ở Điện Biên Phủ cũng như hoàn cảnh gia đình của từng người. Bác xúc động khi nghe kể về hoàn cảnh khó khăn của các chiến sĩ và động viên: Đất nước rồi sẽ độc lập, chắc chắn dân sẽ đủ ăn. Bác căn dặn các chiến sĩ: phải tranh thủ học tập thật nhiều nâng cao trình độ văn hoá. Có học mới phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng [4]. Kỷ niệm sinh nhật, Bác viết tài liệu “Tuyệt đối bí mật” Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Bác vui với niềm vui miền Bắc được hoà bình nhưng lại trăn trở và lo lắng khi miền Nam vẫn chưa được giải phóng, đất nước vẫn chưa được thống nhất, đồng bào miền Nam còn phải chịu nhiều đau khổ, hy sinh. Trong những dịp kỷ niệm sinh nhật, Bác thường không đồng ý cho tổ chức để khỏi tốn kém và làm mất thời gian của đồng bào, đồng chí, hoặc Người thường bố trí đi công tác xa để tránh sự chúc thọ làm phiền tới mọi người. Kỷ niệm sinh nhật Bác năm 1965 là dịp hết sức đặc biệt: Bác Hồ tròn 75 tuổi. Dường như Người đoán trước được quy luật khắc nghiệt mà cuộc đời bất kỳ con người nào cũng phải trải qua. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Buổi sáng thứ hai, ngày 10-5-1965 tại phòng làm việc ở nhà sàn trong khu Phủ Chủ tịch, vào lúc 9 giờ - giờ đẹp nhất của một ngày, Bác Hồ đã đặt nét bút viết những dòng đầu tiên của tài liệu "Tuyệt đối bí mật". Mở đầu bản Di chúc, Bác viết: "Nhân dịp mừng 75 tuổi", "…Năm nay, tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khoẻ. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp người "xưa nay hiếm". Cũng như nhiều dịp kỷ niệm ngày sinh nhật của Bác, đúng vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác năm 1965 Bác Hồ lại đi công tác xa. Biết trước được điều đó nên ngày 14-5-1965 các đồng chí trong Bộ Chính trị và một số đồng chí uỷ viên Trung ương Đảng tranh thủ thời gian tới chúc thọ sinh nhật Người. Nhận bó hoa tươi và những lời chúc mừng của các đồng chí trong Bộ Chính trị, Bác liền hỏi: - Bác muốn biết ai đứng ra tổ chức cuộc gặp mặt hôm nay? Đồng chí Trường Chinh thay mặt Bộ Chính trị thưa với Bác: - Thưa Bác! nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 75 của Bác, chúng tôi thay mặt Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận tổ quốc Việt Nam xin kính chúc Bác mạnh khoẻ, sống lâu. Bác xúc động nói: - Cám ơn các chú đã có lòng, nhưng trong lúc toàn dân ta đang kháng chiến gian khổ, mọi công việc hết sức khẩn trương mà lại tổ chức chúc thọ một cá nhân là không nên. Bác vui vẻ giơ cao tay mời tất cả mọi người ăn kẹo, ăn bánh và dặn: "Nhớ để phần cho các thím và các cháu ở nhà nữa". Tất cả mọi người đều cười vang trong không khí gần gũi, đầm ấm, chan hoà. Ngày 15-5-1965 Bác rời Hà Nội đi thăm Trung Quốc. Ngày 18-5, khi biết các bạn Trung Quốc chuẩn bị chúc thọ nhân kỷ niệm ngày sinh của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với Nguyên soái Trung Quốc Diệp Kiếm Anh và cán bộ phụ trách nhà nghỉ: “Tôi sang đây vào dịp này là tránh việc chúc thọ ở trong nước. Vì vậy, tôi yêu cầu các đồng chí cũng không tổ chức chúc thọ…” Ngày 19-5, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Bắc Kinh đi thăm quê hương Khổng Tử, chiều cùng ngày Người đến thăm di tích Khổng Phủ, Khổng Miếu, Khổng Lâm, Người nói nhiều về quan niệm “lấy dân làm gốc” của Khổng Tử và Mạnh Tử. Trên đường trở về, Người đã làm bài thơ chữ Hán Phỏng Khúc Phụ ghi lại cảm xúc chuyến thăm quê hương Khổng Tử: “Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ Cổ tùng cổ miếu lưỡng y hy Khổng gia thế lực kim hà tại? Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi” Dịch thơ: “Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ Miếu xưa vẫn dưới bóng tùng xưa Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ? Lấp loáng bia xưa chút ánh tà”[5]. Kỷ niệm sinh nhật cuối cùng của Bác Hồ Bước sang năm 1969, sức khoẻ của Bác Hồ có phần yếu nhiều. Dịp kỷ niệm sinh nhật năm ấy, Bác không đi “công tác xa” như những năm trước đó. Và cũng khác với những lần Bác sửa Di chúc trong những dịp sinh nhật Bác, lần đầu tiên trong 4 năm (1965-1969) Bác Hồ viết và sửa di chúc muộn hơn, từ 9h30 đến 10h30 ngày 10-5-1969. Bác viết: "Năm nay tôi vừa 79 tuổi đã là hạng người “Xưa nay hiếm”. Nhưng tinh thần và đầu óc vẫn sáng suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài năm trước đây .Khi người ta đã ngoài 70 tuổi, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ… Vì vậy, Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi phải đi gặp các cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi thấy đột ngột“[6] Chiều ngày 11-5-1969, Bác đến thăm và nói chuyện với các đại biểu dự Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân. Cả hội trường vang dậy những tràng vỗ tay vui mừng phấn khởi được đón Bác. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ thay mặt các cán bộ và chiến sĩ toàn quân mang hoa đến chúc thọ Bác nhân dịp sinh nhật Bác. Đồng chí xúc động bày tỏ: - Thưa Bác! Nhân dịp mừng thọ Bác 79 tuổi, chúng cháu xin thay mặt cán bộ chiến sĩ toàn quân, kính chúc Bác mạnh khoẻ, sống lâu. Toàn thể lực lượng vũ trang nhân dân tin tưởng tuyệt đối và biết ơn sâu sắc sự lãnh đạo, giáo dục và thương yêu chăm sóc của Đảng, của Bác. Đồng chí Vương Thừa Vũ vừa dứt lời, Bác vui vẻ rút một bông hoa đẹp nhất tặng lại đồng chí [7]. Ngày 18-5-1969, các cán bộ trong cơ quan Phủ Chủ tịch tổ chức mừng thọ Bác. Mọi người phấn khởi thưa với Bác về những chiến công mà quân và dân miền Nam đã giành được kính dâng lên Bác nhân dịp sinh nhật. Đồng chí Vũ Kỳ - thư ký riêng của Bác, thay mặt các cán bộ văn phòng và những người giúp việc đứng dậy xúc động nói: “Thưa Bác, nguyện vọng tha thiết của anh em là cố gắng mọi mặt mong Bác ăn được ngon, ngủ được tốt. Kính chúc Bác mạnh khoẻ sống lâu, lãnh đạo toàn dân kháng chiến thắng lợi”. Chiều cùng ngày 18-5-1969, các đồng chí trong Bộ Chính trị và một số đồng chí uỷ viên Trung ương vào chúc thọ Bác ở căn nhà họp Bộ Chính trị gần ngôi nhà sàn trong khu Phủ Chủ tịch. Buổi lễ mừng sinh nhật Bác lần thứ 79 rất đơn giản và đầm ấm. Mọi người đều đứng xung quanh Bác. Đồng chí Tố Hữu tặng hoa, đồng chí Lê Duẩn đọc lời chúc thọ mừng sinh nhật Bác. Bác cười vui thân mật mời mọi người ăn bánh kẹo và không quên dặn “nhớ mang phần về cho các cô và các cháu ở nhà”. Buổi sáng sớm ngày 19-5-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dậy sớm như thường lệ và cố gắng tập những động tác thể dục đơn giản nhất. Bác rất cố gắng và kiên trì tập ném bóng vào cái giỏ đựng giấy để cách xa khoảng vài mét ở dưới nhà sàn. Bác đang bình tĩnh chuẩn bị ra đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn kiên nhẫn muốn có thêm thời gian, thêm sức khoẻ ở lại với đồng bào, đồng chí, vì sự nghiệp cách mạng chưa trọn vẹn, miền Nam chưa được giải phóng, đất nước chưa được thống nhất. Đầu giờ sáng ngày 19-5-1969, Bác tiếp các cháu thiếu nhi là con các đồng chí phục vụ đến chúc thọ Người. 9 giờ sáng của ngày sinh nhật lần thứ 79, Bác lại ngồi vào bàn làm việc, xem và chỉnh sửa, bổ sung bản Di chúc. Người thay đổi ba chữ trên trang đầu: Bác thêm chữ “rất” thay chữ “như thường” trong câu “Nhưng tinh thần, đầu óc vẫn sáng suốt như thường” để thành “Nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt”. Trong câu “Khi người ta đã ngoài 70 tuổi”, Bác thay chữ “tuổi” bằng chữ “xuân”. Bác dùng từ “sẽ” thay chữ “phải” trong câu “phòng khi tôi phải đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”[8]. 10 giờ 30 Bác tiếp chị Phan Thị Quyên (vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi) và chị Nguyễn Thị Châu (Uỷ viên BCH Hội Liên hiệp thanh niên và sinh viên giải phóng khu Sài Gòn Chợ Lớn - Gia Định) đến chúc thọ Người. 14 giờ, các bác sĩ đến kiểm tra sức khoẻ cho Bác. 14giờ 30, Người lên nhà sàn viết thư khen thiếu niên Hợp tác xã măng non thôn Phú Mẫn, xã Hàm Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc đã có nhiều thành tích trong việc chăm sóc trâu bò. Trong ngày, Bác gửi tặng cán bộ nhân dân tỉnh Nghệ An tấm ảnh chân dung của Người. Phía dưới tấm ảnh Người viết: “Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong công tác, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”[9]. Sinh nhật Bác Hồ năm 1969 diễn ra bình thường như những ngày làm việc của Bác và tất cả mọi người đều không ai nghĩ rằng đó là dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ lần cuối cùng./. Anh Minh Các cháu thiếu nhi mừng sinh nhật Bác 70 tuổi (ảnh chụp năm 1960 tại sân Phủ Chủ tịch) [1] Báo Cứu quốc, số 244 ngày 20-5-1946 [2] Bác Hồ sống mãi với chúng ta, hồi ký, Nxb CTQG, H.2005, tr.332 [3] Báo Nhân dân, số184 từ ngày 12 đến 15-5-1954 [4] Những năm tháng bên Bác Hồ kính yêu, Nxb Thanh Niên, tr.66 [5] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb CTQG, H.1996, t.9, tr 246,248 [6] Bác Hồ viết di chúc, Nxb CTQG, H.1999, tr34,35 [7] Bác Hồ viết di chúc, Nxb CTQG, H.1999, tr87,90,109 [8] Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Nxb CTQG, H.2005, tr.235 [9] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb CTQG, H.1996, t.10, tr.350 10. NƯỚC NÓNG, NƯỚC NGUỘI Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, có một đồng chí cán bộ trung đoàn thường hay quát mắng, đôi khi còn bợp tai chiến sỹ. Đồng chí này đã từng làm giao thông, bảo vệ Bác đi ra nước ngoài trước Cách mạng Tháng Tám. Được tin nhân dân “dư luận” về đồng chí này, một hôm, Bác cho gọi lên Việt Bắc. Bác dặn trạm đón tiếp khu ATK, dù có đến sớm, cũng giữa trưa mới cho đồng chí ấy vào gặp Bác. Trời mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng ngọ “đồng chí Trung đoàn” vã cả mồ hôi, người như bốc lửa. Đến nơi, Bác đã chờ sẵn. Trên bàn đã đặt hai cốc nước, một cốc nước sôi có ý chừng vừa như mới rót, bốc hơi nghi ngút, còn cốc kia là nước lạnh. Sau khi chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nóng nói: - Chú uống đi. Đồng chí cán bộ kêu lên: - Trời! Nắng thế này mà Bác lại cho nước nóng làm sao cháu uống được. Bác mỉm cười: - À ra thế. Thế chú thích uống nước nguội, mát không? - Dạ có ạ. Bác nghiêm nét mặt nói: - Nước nóng, cả chú và tôi đều không uống được. Khi chú nóng, cả chiến sĩ của chú và cả tôi cũng không tiếp thu được. Hoà nhã, điềm đạm cũng như cốc nước nguội dễ uống, dễ tiếp thu hơn. Hiểu ý Bác giáo dục, đồng chí cán bộ nhận lỗi, hứa sẽ sửa chữa… Theo http://quangtri-ict.gov.vn/ Sẽ tiếp tục cập nhật ! p/s: ai có thì share cùng mình nhé!
Tiếp tục cập nhật... 11. Bác Hồ với Thủ tướng Ấn Độ Nehru Tại cuộc đối thoại với các đoàn viên thanh niên ngành ngoại giao chiều ngày 25-8 vừa qua tại Hà Nội, một bạn trẻ đề nghị Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên kể về những kỷ niệm khi ông làm phiên dịch cho Bác Hồ. Ông Nguyễn Dy Niên, năm nay 70 tuổi, 51 năm làm việc trong ngành ngoại giao, đã kể cho các đoàn viên thanh niên nghe câu chuyện còn ít người biết dưới đây. Năm 1958 Bác Hồ sang thăm Ấn Độ. Trước đó, tôi được cử sang Ấn Độ học tiếng Hindhi, chuẩn bị cho chuyến thăm này của Bác Hồ và vinh dự được làm phiên dịch cho Bác trong thời gian Người ở thăm Ấn Độ. Ấn tượng sâu sắc và vinh dự to lớn đối với tôi là lần đầu tiên được đọc bài diễn văn của Bác đã dịch sẵn sang tiếng Hindhi. Trong cuộc mít-tinh có hàng vạn người dự tại Red Fort (Thành Đỏ) ở thủ đô Delhi, các bạn Ấn Độ làm sẵn một cái ghế cho Bác Hồ ngồi trên bục danh dự. Chiếc ghế trông như một cái ngai vàng, rất lớn. Trong khi đó, Thủ tướng Ấn Độ ngày ấy là J. Nehru thì chỉ ngồi một chiếc ghế bình thường như mọi người khác. Khi Thủ tướng Nehru mời Bác Hồ ngồi vào chiếc ghế đó, Bác dứt khoát từ chối. Thấy vậy, Thủ tướng Nehru nói: Ngài là khách danh dự của chúng tôi, việc Ngài ngồi lên chiếc ghế này chính là niềm vinh dự của chúng tôi mà... Chứng kiến điều này, hàng vạn người dự mít tinh phía dưới quảng trường đứng cả lên xem. Hai vị lãnh tụ của hai nước cứ nhường nhau, cuối cùng chẳng ai ngồi lên chiếc ghế lớn ấy. Thủ tướng Nehru đành gọi người cho chuyển chiếc ghế đi, thay bằng một chiếc ghế khác giản dị hơn. Thấy vậy, hàng vạn người dân Ấn Độ dưới quảng trường rất cảm kích vỗ tay vang dội và hô rất to: "Hồ Chí Minh muôn năm!" Hồ Chí Minh muôn năm!". Chuyện này được người Ấn Độ sau đó kể lại rất nhiều, trở thành một huyền thoại của họ về Bác Hồ. Trong chuyến thăm này, trong một bữa tiệc do Thủ tướng Nehru chiêu đãi Bác Hồ có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng năm ngón tay để bốc thức ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay bốc thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng dao, dĩa. Bác Hồ rất tinh ý, Người nói với Thủ tướng Nehru: Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười ầm cả lên làm cho không khí bữa tiệc hôm đó rất vui vẻ và thân mật. 12. BÁC HỒ VỚI NGÀNH GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Bác rất quan tâm đến con trẻ Vũ Kỳ kể Bác Hồ yêu các cháu, hiểu các cháu, tin tưởng các cháu. Vì đó là tương lai của dân tộc. Đó là những mầm, những búp trên cành... Tình yêu đó thấm đậm chất người. Một sự tình cờ đầy ý nghĩa – sau ngày sinh của Bác Hồ là sắp đến Tết Thiếu nhi Quốc tế 1-6. 07 giờ ngày 27. Bác gọi chị Thu Trà đến hỏi về tình hình có một số cháu học sinh miền Nam nghịch ngợm, quấy phá mà Bác được nghe báo cáo. Việc đó là có thật. Nhưng Bác hỏi về khía cạnh khác: Các cô, các chú dạy dỗ thế nào? Bởi lúc ba má các cháu gửi ra ngoài Bắc thì các cháu đều ngoan và ba má các cháu đều tin tưởng ở hậu phương. Bác nhắc phải chú ý đến việc các cháu thiếu tình cảm gia đình, phải tìm cách bù đắp. Rồi Bác kết luận: Lỗi các cháu một phần thì lỗi của người lớn chúng ta mười phần. Quả nhiên, sau này đưa các cháu đến với sự chăm sóc của các gia đình cán bộ khác thì các cháu đỡ hẳn chuyện gây gổ, nghịch ngợm. Phần Bác cũng nhận chăm sóc một cháu trai, hai cháu gái, con đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Bác luôn luôn coi trẻ em cũng là một nhân cách, một thực thể đáng tôn trọng, chứ không chỉ đáng yêu mến. Nhớ hồi năm 1957, một hôm Bác hỏi tôi chuyện riêng tư: - Chú Kỳ này! Có bao giờ chú đánh con không? Tôi ấp úng vì quả là lúc giận quá tôi cũng có đánh các cháu. Không dám giấu Bác, tôi thú thật: - Thưa Bác! Khi nóng giận cũng có lúc tôi đánh dọa vài roi ạ. Bác vẫn không cao giọng, nhưng nghe thấy nghiêm khắc hơn: - Thế là dã man đấy, chú ạ. Tôi suy ngẫm thấy rất đúng. Bác nhìn nhận khuyết điểm, nhược điểm của con người một cách bình tĩnh như hiểu cái lẽ tự nhiên “bàn tay có ngón dài ngón ngắn vậy”. Tấm lòng Bác mở rộng, bao dung cho tất cả… Bác không nói trẻ em hư, không nói con người hỏng, mà nhận xét có một số chậm tiến, có một số cụ thể có lúc nào đó, ở chỗ nào đó chưa tốt, chưa hay lắm. Cái chưa hay, chưa tốt ấy cần được uốn nắn một cách chân tình và kịp thời. Trích theo sách của Hoàng Giai: Ai yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh, Nxb.Thanh niên, H.1999, tr.134-136 Bác nhớ các cháu Đoàn Văn Luyện kể Tháng chạp năm 1968, các dũng sĩ thiếu niên miền Nam đang học ở Tả ngạn thì có mấy chú đưa xe ô tô đến đón về Hà Nội. Luyện, Thu, Nết, Phổ, Mên, Hoà,… chưa hiểu có chuyện gì. Về thủ đô hôm trước thì năm giờ chiều ngày hôm sau có xe đến đón đi. Vào đến sân Phủ Chủ tịch mới biết là được vào gặp Bác Hồ. Vừa bước chân xuống xe, đã nom thấy Bác Hồ và Bác Tôn ngồi ở một cái ghế gỗ dài kê trước cửa nhà, tất cả chạy ào tới chào Bác. Bác cháu trò chuyện với nhau. Sau đó hai Bác bảo: - Thôi, các cháu vào ăn cơm với hai Bác! Bữa cơm không có thịt cá gì nhiều nhưng rất ấm cúng. Các dũng sĩ thiếu niên được ngồi ăn cùng với Bác Hồ và Bác Tôn. Nết, người nhỏ quá, cái đầu chỉ lấp ló cạnh bàn, được Bác gắp thức ăn cho luôn. Vừa ăn, bác cháu vừa nói chuyện rất vui. Ăn xong, hai Bác cho mỗi cháu một bông hồng, một quả táo, một quả lê và ba quyển sách “Người tốt, việc tốt”. Sau đó, Bác Hồ bảo: - Các cháu lại cả đây hôn hai Bác rồi ra về. Các dũng sĩ hôn hai Bác xong, Bác Hồ lại dặn: - Các cháu về trường cố gắng học tập cho giỏi. Tất cả đều rất cảm động. Đoàn Văn Luyện lên tiếng thưa với Bác: - Thưa Bác, chúng cháu cứ tưởng hai Bác gọi các cháu về có việc cần. Bác Hồ cười hiền từ và bảo: - Hai Bác nhớ các cháu cho nên gọi các cháu về để hai Bác gặp hỏi chuyện. Nghe Bác nói, Luyện và các bạn cảm động, muốn trào nước mắt. Hai Bác tuổi đã cao, trăm nghìn công việc, vậy mà hai Bác vẫn nhớ đến các cháu miền Nam. Luyện nghĩ: “Mình được ở ngoài Bắc mà hai Bác còn lo và thương như vậy, các bạn còn ở trong Nam, hai Bác còn lo và thương biết chừng nào!...” Trích trong sách: Bác Hồ kính yêu, Nxb. Kim Đồng, H.1979, tr 151-152. Kỷ niệm gặp Bác Trần Thanh Pôn kể Năm 1955, chừng 20 học sinh Việt Nam dân tộc Khơ-me và 30 học sinh của dân tộc Tây Nguyên tập kết ra Bắc có trình độ từ lớp 4 trở lên đi học ở trường trung sơ cấp sư phạm miền núi Trung ương cùng các ban học sinh dân tộc ít người ở miền Bắc. Chúng tôi được nghe nhiều tiếng nói, âm sắc khác nhau của mỗi dân tộc biểu hiện lòng yêu mến Bác Hồ bằng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình: Book Hồ, A Cha Hồ, Ava Hồ, Giàng Hồ, Ké Hồ, Bak Hồ, Um Hồ... và lúc nào chúng tôi cũng mong được gặp Người. Năm học 1956, ước mơ được gặp Prak Hồ của chúng tôi thành sự thật. Người đi thăm lớp học, nơi ở, nhà bếp, sân chơi,... của chúng tôi. Người dặn dò: - Các cháu là con em các dân tộc trong cả nước về đây học tập để sau này trở thành thầy cô giáo, phải đoàn kết, thương yêu nhau như anh em một nhà. Cố gắng học thật tốt để đem hiểu biết đó xây dựng quê hương mình. Các cháu phải có trách nhiệm mang ánh sáng văn hóa của Đảng về thắp sáng bản mường, buôn rẫy, phum sóc của mình… Rồi Prak Hồ hỏi: - Các cháu có đồng ý vậy không? - Thưa Bác, có ạ! Tất cả chúng tôi đồng thanh trả lời… Năm 1957 đoàn đại biểu chính phủ In-đô-nê-xi-a sang thăm Hà Nội, giáo sinh các dân tộc ở trường chúng tôi mặc trang phục theo dân tộc mình, đón đoàn tại lễ đường Trường Đại học Y khoa Hà Nội. Bác Hồ giới thiệu chúng tôi với tổng thống Xu-các-nô. Rồi Người quay sang hỏi chuyện chúng tôi: - Cháu là người dân tộc Khơ-me phải không? - Dạ, phải! Tôi vô cùng ngạc nhiên không hiểu tại sao Prak Hồ biết. - Cháu học lớp mấy? Người hỏi tiếp. - Dạ, lớp 7 ạ! - Nhớ ba má, quê hương miền Nam không? - Dạ, nhớ lắm ạ! Prak Hồ dặn: - Cố gắng học thật giỏi để biểu hiện tấm lòng nhớ thương ba má và quê hương… Lần ấy là lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp Bác. Từ đó, trong quá trình học tập cho đến khi tốt nghiệp bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ ở Liên Xô (1970) và mãi mãi không bao giờ tôi quên lời dặn dò của Người. Trích trong bài đăng trên Báo Sài Gòn 19-5-1990. Bác dạy: "phải chăm chỉ học tập" Hiền Đức kể Năm 1950, tôi 16 tuổi, nhưng người còn bé lắm. Từ Khu III, tôi chuyển công tác về làm liên lạc đưa công văn sang Văn phòng Phủ Chủ tịch. Hôm đó, đang chú ý nhìn một tổ chim trên cành cao, tôi bỗng thấy một Ông Cụ già ở phía trước đi lại. Thoáng trông, tôi nhận ngay ra Bác, tôi reo lên và chạy lại. Bác thân mật dẫn tôi đi về phía văn phòng. Trên đường, Bác hỏi chuyện tôi về gia đình, về công tác, về sinh hoạt và bảo tôi ở lại ăn cơm trưa. Bấy giờ theo chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cơ quan chọn cử một số cán bộ trẻ ra nước ngoài học. Tôi cũng ở trong số đó. Nhưng tôi không muốn đi. Biết được điều đó, Bác liền gọi đến và nói: - Bây giờ có điều kiện thì phải học tập. Học tập để hiểu nhiều, biết nhiều. Có hiểu nhiều biết nhiều, mới phục vụ nhân dân tốt được. Sau khi giảng giải và khuyên tôi đi học là cần thiết, Bác dặn: - Đi học thì phải chịu khó, chăm chỉ học tập. Chưa hiểu thì hỏi, không được giấu dốt, đã hiểu rồi thì bảo lại cho bạn cùng hiểu. Rồi Bác lấy cái hộp thuốc lá của Bác đưa cho tôi. Bác nói: - Bác cho cháu cái hộp này để đựng kim chỉ, ngoài giờ học thêu, thùa, vá, may. Con gái phải biết làm những việc đó. Tôi học sư phạm và trở thành nhà giáo. Ngày tháng qua đi rất nhanh. Nhưng những lời Bác dặn vẫn vang vọng trong lòng tôi. Tôi ra sức học tập, dạy dỗ các em. Chiếc hộp thuốc lá Bác cho, tôi giữ rất trân trọng. Nghe lời Bác dặn, tôi học may, học vá, học thêu thùa. Trong chương trình học tập của các em, tôi cũng cố gắng sắp xếp thì giờ dạy các em gái trong lớp học khâu vá. Năm nào, tôi cũng kể cho các em nghe chuyện chiếc hộp thuốc lá Bác cho. Tôi không có ý đề cao mình là đã được gặp Bác, mà muốn qua câu chuyện thật làm cho các em thêm kính yêu lãnh tụ, thêm cố gắng học tập và làm theo lời Bác dạy. Tôi được gặp lại Bác trong một trường hợp rất đột ngột. Hôm đó, Bác đến thăm trại hè của giáo viên họp ở trường Chu Văn An. Nghe tin Bác đến thăm, cả hội trường náo nức hẳn lên. Riêng tôi thì lòng xáo động, bồn chồn đến lạ! Suốt từ ngày xa Bác ở Việt Bắc đến giờ, tôi chưa được gặp lại Bác. Không biết Bác dạo này có khỏe không? Bế con trong lòng, tôi cứ thầm mong Bác đi qua chỗ mình để được thấy Bác (Hôm đó đi họp buổi tối, tôi bế theo cả cháu bé). Bác đến. Cả hội trường reo lên. Bác nói chuyện với chúng tôi rất vui, rất sôi nổi. Bác hoan nghênh năm học vừa qua các thầy giáo, cô giáo đã có nhiều cố gắng. Bác nói: - Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải có con người xã hội chủ nghĩa. Các thầy giáo, cô giáo là những người đào tạo cho Tổ quốc những con người mới. Các thầy giáo, cô giáo phải thấy nhiệm vụ đó là hết sức vinh quang nhưng cũng vô cùng nặng nề, mà mỗi người đều phải cố gắng vượt bậc mới hoàn thành được... Bác dặn: - Thầy giáo thì phải hiểu học trò, phải thực sự thương yêu, chăm sóc học trò. Dạy học, không chỉ dạy trên lớp mà còn phải liên hệ với gia đình, với đoàn thể. Nói chuyện xong, Bác bước xuống bục, đi lại phía tôi. Gặp tôi, Bác hỏi: - Cháu Đức đó à? Tôi xúc động quá! Bao nhiêu năm rồi, bao nhiêu ngày xa cách, bao nhiêu sự việc, bao nhiêu con người... thế mà Bác còn nhớ tôi. Cổ nghẹn lại, nước mắt trào ra, mãi tôi vẫn không trả lời Bác được. Thấy tôi bế cháu bé. Bác lại hỏi chuyện gia đình tôi và khen cháu bé khoẻ, lớn. Tôi nghĩ đến những lời Bác dặn trước kia và cái hộp thuốc lá Bác cho để đựng kim chỉ. Tôi nói với Bác: - Thưa Bác, nghe lời Bác dạy, cháu đi học sư phạm rồi về nước dạy học, cái hộp Bác cho để đựng kim chỉ, cháu vẫn còn giữ. Tôi định nói rất dài nhưng cổ cứ nghẹn lại không thể nào nói được nữa. Bác hỏi tôi bây giờ đã biết khâu vá giỏi chưa và dặn tôi đã là cô giáo thì không phải chỉ có mình biết mà còn phải dạy cho học trò biết nữa. Bác vuốt má cháu bé, con tôi, rồi nói tiếp: - Vừa dạy học, vừa nuôi con, như thế này là giỏi, Bác khen, nhưng phải cố gắng hơn nữa. Mười ngày sau, Phủ Chủ tịch gửi ra cho tôi bức ảnh Bác đang âu yếm vuốt má cháu bé con tôi. Đó là tấm ảnh quý nhất của cả đời tôi. Hình ảnh đó mãi mãi ở trong con tim khối óc của mẹ con tôi... Trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, t.2, Nxb CTQG, H.2005, tr.494-498 13. Chỉ thị thành lập quân đội của Bác Hồ gửi trong bao thuốc lá Mùa xuân năm 1941, sau khi đi khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trước tình hình và vận mệnh của dân tộc, Người rất coi trọng và trực tiếp tổ chức huấn luyện chính trị, quân sự cho cán bộ địa phương, chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tạo điều kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Chỉ thị đặc biệt Đầu tháng 12 năm 1944, tại Pác Bó (Cao Bằng), lãnh tụ Hồ Chí Minh đã triệu tập đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Vũ Anh đến để nghe báo cáo tình hình phong trào cách mạng trong ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng và chủ trương phát động chiến tranh du kích của liên tỉnh uỷ. Người chỉ định đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm công tác thành lập lực lượng vũ trang tập trung. Ngay chiều hôm sau, Người gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Lê Quảng Ba để thông qua kế hoạch thành lập đội. Người thêm hai chữ "Tuyên truyền" vào tên đội Việt Nam giải phóng quân và dặn: "Nhớ bí mật: Ta ở đông, địch tưởng là ở tây. Lai vô ảnh, khứ vô hình". Nửa tháng sau, lãnh tụ Hồ Chí Minh gửi một bức thư (được đặt trong bao thuốc lá) cho đồng chí Võ Nguyên Giáp. Đó là chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Chỉ thị gồm ba vấn đề chủ yếu: Một là, tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền, có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp vũ khí, nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. Nguyên tắc tổ chức lực lượng là sẽ chọn trong hàng ngũ du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực... Hai là, đối với các đội vũ trang địa phương. Tập trung các cán bộ đưa đi huấn luyện rồi đưa về huấn luyện ở các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến... Ba là, về chiến thuật: "vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ảnh, khứ vô hình". Người khẳng định: "Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Bắc vào Nam, khắp đất nước Việt Nam". Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Sam Cao (còn gọi là Trần Hưng Đạo) thuộc huyện Nguyên Bình - tỉnh Cao Bằng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Đội gồm có 34 đội viên được biên chế thành trung đội gồm 3 tiểu đội với vũ khí hết sức thô sơ. Sau khi thành lập lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, mặc dù bận trăm công ngàn việc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trực tiếp thường xuyên chỉ đạo và dành những tình cảm đặc biệt đến việc giáo dục rèn luyện và xây dựng lực lượng quân đội. Đặc biệt vào những ngày thành lập lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam hàng năm, Người đều viết thư động viên, khen ngợi những thành tích mà lực lượng Quân đội đạt được và đến thăm, dự mít tinh, chiêu đãi do Bộ Quốc phòng tổ chức. Ngày 22 tháng 12 năm 1949, nhân kỷ niệm 5 năm Ngày thành lập lực lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Người điểm lại quá trình phát triển của quân đội ta, từ nhóm du kích đầu tiên thành lập sau 5 năm đã trở thành một quân đội lớn mạnh. Người chỉ rõ: "Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước yêu dân, cho nên hy sinh gian khổ. Quân đội ta luôn giữ gìn và phát huy truyền thống anh dũng của quân đội giải phóng Việt Nam và đạo đức cách mạng gồm trong 10 điều kỷ luật". Những lời dặn dò của Bác Nhân 10 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam trong không khí hoà bình ở miền Bắc, ngày 22/12/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi những thành tích mà toàn thể CBCS đạt được và chỉ rõ nhiệm vụ của quân đội. Người tặng mỗi Đại đoàn và mỗi Liên khu một lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" để làm giải thưởng luân lưu. Ngày 22/12/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể CBCS nhân dịp 15 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Người khen ngợi quân đội ta trong 15 năm qua đã vượt mọi khó khăn, làm tròn nhiệm vụ và đã lập được nhiều thành tích vẻ vang và căn dặn tất cả cán bộ và chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân: "Phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, kỹ thuật và văn hoá, ra sức công tác và lao động, tăng cường sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội; Phải trau dồi đạo đức cách mạng, đoàn kết, khiêm tốn, hết lòng vì Đảng, vì nhân dân; Phải nâng cao chí khí chiến đấu, luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình". Cùng ngày, Người tới dự buổi chiêu đãi kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Phát biểu tại buổi chiêu đãi, Người biểu dương: "Quân đội chúng ta anh hùng trong kháng chiến mà cũng anh hùng trong hoà bình" và nêu rõ sở dĩ có những thắng lợi và những thành công đó là nhờ sự giáo dục và lãnh đạo của Đảng, nhờ sự giúp đỡ của nhân dân. Vì vậy, cán bộ và chiến sĩ "không được tự mãn, không được tự kiêu. Trái lại, cần phải khiêm tốn, cần phải đoàn kết, cần phải ra sức thi đua học tập, học tập về chính trị, học tập văn hoá, học tập kỹ thuật". Trong không khí phấn khởi kỷ niệm lần thứ 20 Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Tối ngày 22/12/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự chiêu đãi tại Bộ Quốc phòng. Phát biểu tại buổi chiêu đãi, Người khen ngợi các lực lượng vũ trang đã lập nhiều thành tích trong chiến đấu, học tập và lao động sản xuất. Ca ngợi truyền thống chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta, Người nói: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Người còn khẳng định rõ: "Quân đội ta có một sức mạnh vô địch vì nó là quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục". Nguồn gốc của sức mạnh ấy là do cán bộ, chiến sĩ đoàn kết, quân dân đoàn kết. Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ phải khiêm tốn, cố gắng hơn nữa, phải học tập quân và dân miền Nam anh hùng, phải nâng cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hành động và âm mưu của kẻ thù. Nhân kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam - ngày hội Quốc phòng toàn dân, cán bộ và chiến sĩ trong lực lượng quân đội phát huy truyền thống quý báu của "Bộ đội Cụ Hồ" hơn sáu thập kỷ qua; quyết tâm xây dựng lực lượng quân đội tiến lên chính quy, tinh nhuệ và hiện đại; bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu mạnh. (theo NGuyễn Đức Quý) 14. CHUYỆN BÁC BỎ THUỐC LÁ Theo đồng chí Vũ Kỳ, nguyên thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh kể lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh hút thuốc lá rất nhiều. Việc hút thuốc lá liên quan tới hoạt động cách mạng của Người trong những năm 20 của thế kỷ XX khi Người mang tên Nguyễn Ái Quốc. Đồng chí Vũ Kỳ đã được Bác Hồ tâm sự: Những năm ở Pháp, Người là một thanh niên kháng Pháp nên luôn bị mật thám Pháp theo dõi ở khắp mọi nơi. Người biết bị theo dõi mà không dám quay đầu lại để nhìn. Để có thể quan sát được sự theo dõi, Người nghĩ ra cách hút thuốc. Mỗi lần như vậy, đi qua thùng đựng rác ven đường cách khoảng ba bước chân, Người dừng lại châm thuốc hút, rồi quay lại thùng rác để vứt que diêm, như vậy là Người có dịp quan sát xung quanh, liệu cách đối phó với kẻ theo dõi. Do giả vờ hút thuốc mãi mà đã trở thành thói quen của Người. Năm 1957, trong dịp kỷ niệm 40 năm ngày cách mạng tháng Mười Nga thành công, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã sản xuất loại thuốc lá có đầu lọc để biếu các đại biểu dự đại hội. Đây là loại thuốc mà Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng. Loại thuốc có đầu lọc này nhẹ và ngon hơn loại thuốc của Mỹ và Pháp sản xuất vốn nặng và thường pha thuốc phiện. Các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đã biếu Chủ tịch Hồ Chí Minh hộp thuốc lá này, có lẽ vì cũng biết Người thích hút loại đó. Khi hết thuốc, đồng chí Vũ Kỳ đã giữ lại chiếc hộp để đựng các loại thuốc lá khác cho Người hút vì hộp rất vừa và thuận tiện để bỏ túi. Về sau Trung Quốc sản xuất loại thuốc lá Seo Mao (tức Gấu Mèo) chuyên dùng cho Chủ tịch Mao Trạch Đông. Chủ tịch Mao đã gửi biếu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, Người hút thuốc Gấu Mèo (thuốc đựng trong hộp giống hộp sữa bò). Năm 1967, sức khoẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yếu nhiều, Người hay mệt và ho. Lo cho sức khoẻ của Người, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ cho các bác sĩ phải chăm sóc Người thật tận tình, chu đáo. Các bác sĩ đã đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh không hút thuốc lá nữa. Người nói với đồng chí Vũ Kỳ rằng: "Các bác sĩ bảo Bác không hút thuốc lá nữa thì chú thấy thế nào?". Đồng chí Vũ Kỳ trả lời: "Các bác sĩ lo cho sức khoẻ của Bác là điều tốt, tôi tán thành". Người lại nói: "Mình đã hút thuốc gần 50 năm, bỏ cũng được, nhưng bỏ thì vẫn ho chứ không phải là hết ho" và Người kể cho đồng chí Vũ Kỳ nghe một câu chuyện cười của Pháp là "bỏ thuốc rất dễ, có người bỏ hút thuốc 50 lần nhưng vẫn hút lại, tức là sau mỗi lần bỏ dễ bị hút lại. Nhưng bác sĩ yêu cầu thì nên thôi, chú quản cho Bác". Từ đó đồng chí Vũ Kỳ bỏ hộp thuốc vào túi, thỉnh thoảng đưa cho Người hút một điếu. Việc bỏ thuốc lá của Hồ Chủ tịch không phải nói là chấm dứt ngay được mà phải trải qua một quá trình như khi làm bất cứ một việc gì. Đó là phải đặt ra kế hoạch, có quyết tâm và biện pháp thực hiện. Người nói: "Quyết tâm một, kế hoạch mười, thì biện pháp phải hai mươi, có như vậy mới thực hiện được và bỏ hút thuốc cũng vậy". Trong thời gian làm việc ở Phủ Chủ tịch, Người ở ba nơi: nhà sàn, nhà 54, nhà 67. Người bảo đồng chí Vũ Kỳ để ba lọ penixilin ở ba nơi làm việc. Tuần thứ nhất, mỗi lần Người hút 2/3 điếu (một ngày nhiều nhất là 10 điếu), mỗi lần hút xong cho vào lọ penixilin thì tắt luôn để nhìn thấy đúng 2/3 thì dừng lại không được hút nữa. Tuần thứ hai, Người hút 1/2 điếu rồi bỏ vào lọ. Tuần thứ ba, Người hút 1/3 điếu rồi bỏ vào lọ. Đến tuần thứ tư, Người hút mấy hơi rồi bỏ vào lọ. Theo lời kể của bác sĩ Lê Văn Mẫn (bác sĩ chăm sóc sức khoẻ Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1967 đến năm 1969), hút thuốc lá là thú vui duy nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh như Người thường nói. Nhưng từ khi bị bệnh, theo lời khuyên của hội đồng thầy thuốc, Người có kế hoạch quyết tâm bỏ dần. Người nói: Bác hút thuốc từ lúc còn trẻ nay đã thành thói quen, bây giờ bỏ thì tốt nhưng không dễ, các chú phải giúp Bác bỏ tật xấu này. Rồi Người tự đề ra chương trình bỏ thuốc lá dần dần. Lúc đầu là giảm số lượng điếu hút trong ngày. Khi thèm hút thuốc Người làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý, tập trung. Tuổi Người đã cao mà phải làm như vậy thật quá vất vả. Việc tập một thói quen, rồi bỏ một thói quen không dễ chút nào. Phải có một nghị lực phi thường mới làm được. Người bảo đồng chí giúp việc để cho Người một vỏ lọ Penixillin ở nơi làm việc và ở phòng nghỉ. Hút chừng nửa điếu Người dụi đi để vào lọ đó. Sau hút lại nửa điếu để dành, anh em can bảo thuốc lá hút dở không có lợi, Người bảo: "Nhưng hút thế để có cữ". Với cách làm đó Người đã giảm từ cả bao xuống ba, bốn điếu một ngày. Cứ như vậy Người hút thưa dần. Đầu tháng 3-1968 nhân khi bị cảm ho nhẹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự quyết định bỏ hẳn thuốc lá. Mấy ngày sau, anh em phục vụ vẫn để gói thuốc chỗ bàn làm việc của Người suốt một tuần liền nhưng Người không dùng. Trong một tuần thấy Người quyết tâm như vậy anh em cất hẳn thuốc lá. Một tháng sau, khi tiếp đồng chí Vũ Quang, lúc ấy là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Người nói: "Bác đã bỏ thuốc lá rồi, chú về vận động thanh niên đừng hút thuốc lá". Sau này Người đã làm bài thơ Vô đề về việc Người bỏ thuốc lá như sau: "Thuốc kiêng rượu cữ đã ba năm, Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần. Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn, Một năm là cả bốn mùa xuân". 15. ĐẠO ĐỨC NGƯỜI ĂN CƠM Một chiến sĩ bảo vệ Bác - sau này được phong quân hàm cấp tướng - có lần nói rằng: "Bác thường dạy quân dân ta "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư", Bác dạy phải làm gương trước. Bác dạy phải nêu cao đạo đức cách mạng. Có cán bộ nghĩ rằng "đạo đức" cách mạng là để áp dụng trong công tác thôi. Bản thân tôi, được gần Bác thấy ngay trong khi ăn cơm. Bác cũng đã dạy cho chúng tôi thế nào là "đạo đức". Thứ nhất, Bác không bao giờ đòi hỏi là Chủ tịch nước phải được ăn thứ này, thứ kia. Kháng chiến gian khổ đã đành là Bác sống như một người bình thường, khi hoà bình lập lại có điều kiện Bác cũng không muốn coi mình là vua có gì ngon, lạ, là cống, hiến. Thứ hai, món ăn của Bác rất giản dị, toàn các món dân tộc, tương cà, cá kho....thường là chỉ 3 món trong đó có bát canh, khá hơn là 4, 5 món thôi... Thứ ba, Bác thường bảo chúng tôi, ăn món gì cho hết món ấy, không đụng đĩa vào các món khác. Gắp thức ăn phải cho có ý. Cắt miếng bơ cũng phải cho vuông vức. Nhớ lần đi khu 4, đồng chí bí thư và chủ tịch Quảng Bình ăn cơm với Bác, trong mâm có một bát mắm Nghệ hơi nhiều. Bác dùng bữa xong trước, ngồi bên mâm cơm. Hai cán bộ tỉnh ăn tiếp rồi buông đũa. Bác nhìn bát mắm nói: - Hai chú xẻ bát mắm ra, cho cơm thêm vào ăn cho hết. Hai quan đầu tỉnh đành phải ăn tiếp vừa no, vừa mặn.... Chiều hôm đó, hai đồng chí đưa Bác đi thăm bờ biển, trời nắng, ăn mặn nên khát nước quá. Lần khác, một cán bộ ngoại giao cao cấp người Hà Tĩnh được ăn cơm với Bác, đã gắp mấy cọng rau muống cuối cùng vào bát tương ăn hết. Tưởng là đã hoàn thành nhiệm vụ nào ngờ Bác lại nói: - Tương Nghệ đồng bào cho Bác, ngon lắm. Cháu cho thêm ít cơm vào bát, quẹt cho hết.... Thứ tư, có món gì ngon không bao giờ Bác ăn một mình, Bác sẻ cho người này, người kia rồi sau cùng mới đến phần mình, thường là phần ít nhất. Ăn xong thu xếp bát đũa gọn gàng, để đỡ vất vả cho người phục vụ. Thứ năm, tôi có cảm giác là đôi khi ăn cơm có những giây phút Bác cầm đôi đũa, nâng bát cơm. Bác như tư lự về điều gì đó. Tưởng như Bác nghĩ đến đồng bào, cụ già, em bé đói rách ở đâu đâu. Tưởng như Bác nhớ lại những ngày lao động ở xứ người kiếm từng mẩu bánh để ăn, để uống, để làm cách mạng... Hay là Bác lại nghĩ đến những lần tù đày không có gì ăn. Thật khó hiểu mà càng khó hiểu, tôi lại càng thương Bác quá, thương quá. Bây giờ vào những bữa tiệc cao lương, mỹ vị, rượu bia thức ăn bày la liệt, quái lạ tôi lại nhớ đến Bác rồi... có ăn cũng chẳng thấy ngon như khi xưa ngồi vào mâm cơm đạm bạc với Bác Sưu tầm 16. KỈ NIỆM CỦA BÁC TRONG NHÀ LAO TẠI ĐẢO PHÚ QUỐC (Ghi theo lời Bác Tám Cẩn) Ở trại giam đến ngày 5-9-1969, chúng tôi được tin Bác qua đời, do một sĩ quan quân cảnh Phú Quốc cho biết. Hôm ấy nó bảo chúng tôi: - Này anh có gặp cụ Hồ chưa? - Chưa! Tôi trả lời nó vậy, vì tưởng nó giở trò. - Cụ Hồ có còn đâu để mà gặp, cụ chết rồi! - Ông nói giỡn đấy chớ? Thiệt chớ giỡn gì các anh. Thôi cứ đi làm đi rồi sau sẽ biết. Đảo Phú Quốc Hôm ấy chúng tôi cũng không tin, cho rằng bọn này hay xuyên tạc. Nhưng hôm sau, hình như bọn chúng cố ý đánh rơi một mẩu báo "Tiền tuyến" của Quân đội Sài Gòn. Trong bài báo đó có đưa tin Bác mất. Cả mấy chục nước trên thế giới trong đó có: Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Campuchia, Lào... đến dự lễ tang. Tuy đã cụ thể như vậy, nhưng chúng tôi vẫn chưa tin. Mãi đến ngày 26-9-1969, anh em ở ngoài chẳng may bị bắt vào kể lại, chúng tôi mới tin là thật. Lâu nay, bọn giặc vẫn thường xuyên phao những tin thất thiệt để làm nao núng tinh thần tù nhân. Lần này biết Bác "trǎm tuổi" rồi, chúng tôi báo cho nhau, bằng cách truyền đi các trại và chuẩn bị tư tưởng, xây dựng tinh thần. Vì nhiều anh em nghe Bác mất buồn lo, khóc cả ngày. Khóc thì tất cả anh em đều khóc Bác, thương Bác vô vàn. Nhưng chúng tôi phải nén lòng, giải thích cho anh em: Bác như cây đại thọ. Cây đá còn phải héo mòn, con người ở trên đời phải qua quy luật "sinh lão, bệnh tử". Bác thân yêu của chúng ta đã già, đời Bác gian nan nhiều, vào tù ra tội, Bác sống đến 79 mùa xuân đã vĩ đại lắm rồi! Bác mất đi nhưng còn Đảng, còn những người bạn chiến đấu của Người như Bác Tôn, các đồng chí: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Vǎn Đồng.., do Bác đào tạo sẽ kế tục Bác... Chúng tôi phải làm một buổi học tập như vậy, rồi lo tổ chức tang lễ Bác... Nói là tang lễ , nhưng thật ra trong tù chỉ hai bàn tay trắng, có khi còn bị xích, bị gông làm gì có điều kiện, có phương tiện tổ chức. Sáng hôm 30-9 không như thường lệ, bọn cai ngục gọi ra điểm danh. Mọi bận chúng tôi vẫn ǎn mặc tả tơi, rách nát nhưng hôm đó, chúng tôi cǎn dặn nhau tìm cách khâu vá quần áo lại cho tương đối lành lặn. Chúng tôi dậy sớm lắm, tập hợp đông đủ cả Đ6 có đến hơn 900 đồng chí, mà không thiếu một ai. Tất cả đều để đầu trần. Thường ngày anh em có khǎn thì bịt đầu, có cái nón rách thì đội. Một phần che nắng, nhưng cũng chính là để đỡ đòn. Có nhiều khi roi đòn chúng bổ từ đầu bổ xuống. Nǎm 1969 là nǎm Phú Quốc đổ máu nhiều nhất, cho nên chúng tôi phải tổ chức rất âm thầm, nhưng phải trang nghiêm chu đáo. Từng hàng, từng dãy ngồi im phǎng phắc. Chúng tôi đưa ám hiệu, lập tức 917 người trừ vài đồng chí ốm nặng không lê chân đi được, còn tất thảy đều có mặt ở sân, đều ngồi im. Mọi bận giờ điểm danh, chúng tôi phá bằng cách giả vờ cãi cọ ồn ào, chửi bới ồn ào, chửi mắng lung tung. Nhưng hôm nay im ắng lạ thường. Tên trung sĩ quân cảnh thấy vậy, nó hí hửng cho là chúng tôi "tiến bộ" bị đòn roi nhiều không còn "bất trị" nữa, nên cũng chẳng để ý gì. Sau ba phút yên lặng mặc niệm Bác như vậy, chúng tôi lần lượt giải tán có trật tự và về trại. Chúng tôi có tổ chức treo cờ. Cờ làm bằng vải áo chắp lại. Màu đỏ bằng đá son mài ra, màu xanh bằng lá cây, còn sao vàng bằng thuốc ký ninh chữa sốt rét. Đồng chí K. nói về tiểu sử Hồ Chủ tịch, về quê quán, về gia đình. Cụ phó bảng Sắc, thân sinh ra Bác. Bác sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, một gia đình có truyền thống đấu tranh ở một địa phương mà nhân dân đã anh dũng chống ngoại xâm... Rồi những gian nan của người khi người rời bến tàu Sài Gòn đi tìm con đường cứu nước... Tiểu sử Bác thì ai ai cũng có biết ít nhiều. Nhưng hôm ấy, không khí thiêng liêng kính cẩn nên anh em đều rơm rớm nước mắt... Nhiều anh em đọc thơ Bác, thơ trong "Ngục trung nhật ký". Có đồng chí biết chữ Hán còn ngâm: Thân thể tại ngục trung, Tinh thần tại ngục ngoại; Dục thành đại sự nghiệp, Tinh thần cánh yếu đại. (Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao; Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao) Những anh em nào biết chuyện gì về quá trình đấu tranh làm cách mạng của Bác thì cứ nǎm, ba người kể cho nhau nghe. Có anh em đọc những bài thơ về Bác của nhà thơ Tố Hữu. Bác Hồ, cha của chúng con Hồn của muôn hồn Cho con được ôm hôn má Bác Hôn chòm râu mát rượi hòa bình! Ôi cái tên kính yêu Hồ Chí Minh! Trong sáng lòng anh xung kích... Anh em trong trại lại nhắc nhở nhau học tập và làm theo lời Bác. Dù cho bị tra tấn tàn nhẫn, dù cho thịt nát, xương mềm, lòng anh em chiến sĩ trong tù vẫn sắt son cùng Mặt trận, cùng Cách mạng. Chúng tôi nói chuyện về Bác, kể cuộc đời đấu tranh của Bác gần như công khai, bọn cảnh binh nghe cũng làm lơ đi. Có viên trung sĩ P, có cảm tình với cách mạng, gặp chúng tôi, nó nói thiệt: - Khi nào thống nhất, nhất định tôi sẽ về quê (quê anh ta đâu ở Hải Hưng thì phải). Và trước tiên, tôi sẽ xin đến thǎm lǎng cụ Hồ, thắp hương dâng cụ. Và từ sau khi "đánh hơi" biết chúng tôi có cuộc vận động làm theo "Di chúc Bác" viên trung sĩ P thường giúp đỡ anh em tù binh thực hiện chương trình. Cai ngục sắp lục soát anh ta tin cho biết trước để cất giấu tài liệu. Hoặc bọn quân cảnh đánh anh em tù binh, thì anh ta can ngǎn và dọa bọn nó: - Này chúng mày phải nhìn hậu quả chứ! Nay mai Mỹ rút thì liệu thân đó? Lòng yêu thương kính trọng Bác Hồ của anh em trong tù Phú Quốc cũng cảm hóa phần nào kẻ địch. Ngay những tên ác ôn, cũng ít thằng nào dám nói động đến Bác Hồ. Còn đối với những anh chị em tù chúng tôi, hình ảnh Bác Hồ là chỗ dựa tinh thần vững chãi cho mình, những lúc yếu mềm, đấu tranh gian nan. Vì như nhà thơ Tố Hữu: Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn. 17. Người Pháp, người Mỹ nói về Bác Hồ Tuần báo Đây Paris ra ngày 18-6-1946 là một trong những bài viết sớm nhất, tương đối đầy đủ nhất về phong cách của Bác Hồ. “Chủ tịch nước Việt Nam là một người giản dị quá đỗi. Quanh năm ông chỉ mặc một bộ áo ka ki xoàng xĩnh và khi những người cộng tác quanh ông để ý, nói với ông rằng với địa vị ông ngày nay, nhiều khi cần phải mặc cho được trang trọng, thì ông chỉ mỉm cười trả lời: “Chúng ta tưởng rằng chúng ta được quý trọng vì có áo đẹp mặc, trong khi bao nhiêu đồng bào mình trần đang rét run trong thành phố và các vùng quê”? Sự ăn ở giản dị đến cực độ, như một nhà ẩn sĩ, đó là một đức tính rõ rệt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một tuần lễ ông nhịn ăn một bữa, không phải là để hành hạ mình cho khổ sở mà là để nêu một tấm gương dè sẻn gạo cho đồng bào đặng làm giảm bớt nạn đói trong nước. Hết thảy mọi người xung quanh đều bắt chước hành động đó của ông. Trong những ngày thường, ông dùng cơm ở Bắc Bộ phủ, ngồi chung với hết thảy mọi người. Người ta thấy quây quần xung quanh bàn ăn: các bộ trưởng, những thư ký và cả những cậu thiếu niên phục vụ bàn giấy. Nhờ có đức tính giản dị của ông mà khi ngồi ăn với mọi người ông không làm ai phải giữ kẽ nhiều quá, mà trái lại, không khí chung lộ ra, lúc nào cũng thân mật, cũng vui vẻ, gây cho bữa ăn một vẻ gia đình. Tính giản dị và thân mật của ông còn biểu lộ ra trong những bài diễn văn. Không bao giờ ông tỏ vẻ thông thái, vốn rất rộng của ông. Ông thông thạo bảy thứ tiếng khác nhau và nói được rất nhiều tiếng thổ âm, trái lại ông chỉ dùng những câu nôm na, khiến cho một người dù quê mùa, chất phác nghe cũng hiểu ngay được. Ngày ông viết xã luận cho báo Cứu Quốc, trước khi đem bài cho nhà in, bao giờ ông cũng đem đọc cho một số người không biết chữ, ông già, bà già cùng nghe. Nếu ông thấy thính giả tỏ vẻ không hiểu mấy những ý tưởng trong bài viết lập tức ông viết lại ngay bài khác. Tất cả đức tính Hồ Chí Minh bao gồm trong một cử chỉ bé nhỏ đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất ghét lối nói khoa trương, văn vẻ. Mỗi bài diễn văn của ông là một bài học nhỏ kết luận bằng một ý kiến đạo đức. Bởi những ý tưởng hết sức giản đơn ấy mà bài diễn văn của ông có một tiếng vang lớn trong giới trí thức và dân chúng”. Hai mươi lăm năm sau bài viết trên, năm 1971 – sau khi Bác Hồ đã mất, một người Mỹ - nhà báo, nhà văn Đâyvít Hanbơcstơn trong cuốn sách Hồ của mình, do Nhà xuất bản Răngđôm Haosơ ở New York ấn hành đã viết: “...Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam . Có lẽ hơn bất kỳ một người nào khác của thế kỷ này, đối với dân tộc của ông, và đối với cả thế giới ông là hiện thân của một cuộc cách mạng. Thế nhưng đối với hầu hết nông dân Việt Nam , ông là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng, đấu tranh, hy sinh và thắng lợi của họ. Ông là một người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hòa nhã, không màng địa vị, luôn luôn mặc quần áo đơn giản nhất - cách ăn mặc của ông không khác mấy người nông dân nghèo nhất - một phong cách mà Phương Tây đã chế giễu ông trong nhiều năm, cười ông thiếu nghi thức quyền lực, không có đồng phục, không theo thời trang. Cho đến một ngày họ mới tỉnh ngộ và nhận thấy chính cái tính giản dị ấy, cái sùng bái sự giản dị ấy, cái khả năng hòa mình vào nhân dân ấy là cơ sở cho sự thành công của ông. Trong một nước khi mà dân chúng đã thấy những người cầm đầu đạt tới một địa vị nào đó rồi trở thành “Tây” hơn là “Việt Nam”, bị quyền lực, tiền bạc và lối sống phương Tây làm thối nát; trong một nước khi những người đó đã ngoi lên khá cao thì không làm gì cho dân chúng cả, lập tức bị bán mình cho người nước ngoài, tính giản dị của ông Hồ là một sức mạnh. Địa vị càng cao sang, ông càng giản dị và trong sạch. Hình như ông luôn luôn giữ được những giá trị vĩnh cửu của người Việt Nam : kính già, yêu trẻ, ghét tiền của. Ông Hồ không cố tìm kiếm cho mình những cái trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân, với lịch sử, đến nỗi không cần những pho tượng, những cái cầu, những pho sách, những tấm ảnh để chứng tỏ điều đó cho mình và cho thiên hạ biết. Việc ông từ chối sự sùng bái cá nhân là đặc biệt đáng chú ý trong cái xã hội kém phát triển...”. Theo: Nguyễn Việt Hồng 18. SỐNG TRONG MUÔN VÀN TÌNH THƯƠNG CỦA BÁC HỒ Trần Thị Nhâm kể Thoát khỏi cảnh ngục tù tăm tối, dã man của bọn xâm lược Mỹ, tôi được đưa ra miền Bắc chữa bệnh. Từ những ngày đầu tháng 11-1958, tôi nằm điều trị tại bệnh viện hữu nghị Việt - Xô. Đã mấy lần Bác vào bệnh viện thăm mà tôi cứ mê man không hay biết gì cả! Lúc tỉnh dậy, có chị thương tôi quá không giấu được nỗi vui mừng, luyến tiếc ấy, bèn kể lại là Bác đến thăm tôi. Tôi khóc òa lên như một đứa trẻ thơ xa mẹ. Một hôm, tôi vừa mở mắt ra, thì thấy một bác sĩ già khoác chiếc áo bờ-lu trắng đứng cạnh giường đang nhìn tôi âu yếm, với nụ cười hiền hậu. Sau giây phút ngỡ ngàng tôi nhận ra Bác, tôi nắm chặt bàn tay Bác và khóc nấc lên. Đúng Bác Hồ rồi, người mà các cô chú trong nhà tù và bà con ở miền Nam hằng ước mơ được gặp. Bác cúi hôn trán tôi. Tôi khóc to hơn và gọi: "Bác ơi, các cô chú trong nhà tù và đồng bào miền Nam mong nhớ Bác lắm!". Tôi ngất lịm đi. Lúc tỉnh dậy, các chị kể lại là nhìn thấy tôi trong cơn mê sảng Bác không cầm được nước mắt. Đó là buổi tối ngày 14-11-1958, cái ngày không bao giờ phai mờ trong tâm trí tôi. Tình thương bao la của Bác luôn luôn sưởi ấm lòng tôi. Tôi thấy như thêm sức mạnh để chiến đấu với bệnh tật. Thủ tướng Phạm Văn Đồng (bên trái), Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Anh hùng LLVT Trần Thị Lý, năm 1975. Thế là ước mơ được gặp Bác của tôi đã thành sự thật. Ước mơ đó, tôi ấp ủ từ ngày má tôi thường gọi là "bé Nhâm". Hồi ấy, tôi ở trong hàng ngũ thiếu nhi cứu quốc. Tôi ước mơ được gặp Bác Hồ, như bạn tôi là Kim Phú được dâng hoa lên Bác ngày 2-9-1945, tại Thủ đô Hà Nội. Bạn Phú về kể lại cho tôi nghe chuyện Bác Hồ, người ông yêu quý của các cháu thiếu niên, nhi đồng. Từ đó, tôi có cảm giác Bác Hồ là người ông trong nhà. Được sự quan tâm, săn sóc rất mực tận tình của Bác, của Đảng, được sống trong tình thương yêu ruột thịt không bờ bến của đồng bào miền Bắc, và cả sự chia sẻ đau thương của nhân dân thế giới, thân thể tôi lần lượt lành khỏi 42 vết thương do giặc gây ra, sức khỏe tôi dần dần hồi phục. Tôi được đưa về nghỉ dưỡng sức ở một nơi yên tĩnh. Thỉnh thoảng tôi được Bác gọi vào nơi Bác ở. Bác hỏi về quê quán và bệnh tình của tôi. Bác hỏi thăm sức khỏe các cô chú, anh chị cùng ở nơi an dưỡng với tôi. Tôi kể Bác nghe tình hình đời sống và đấu tranh của chị em phụ nữ miền Nam. Bác cầm tay tôi và nhẹ nhàng xoa bóp các vết sẹo. Bàn tay Bác rung rung. Tôi nhìn Bác, định không kể lại sự tra tấn dã man của giặc, sợ Bác xúc động. Đột nhiên Bác hỏi: - Chúng nó xâu tay cháu với bao nhiêu người khác? Tôi giật mình. Sao Bác biết? Rồi tôi dè dặt thưa: - Dạ, hơn bốn mươi chú... Thấy tôi ngập ngừng, Bác lại nhắc: - Cháu kể tiếp đi. Tôi thầm nghĩ, không thể giấu Bác được, tôi thưa: - Sau những trận đòn tra tấn dữ dội, các chú chân bị cùm, tay bị xâu dây thép cùng với cháu, độ vài ngày sau lên cơn giật rồi chết dần, chết mòn... Chỉ còn lại một mình cháu. Cháu cũng không hiểu tại sao cháu lại không chết. - Tại sao cháu bị chúng tra tấn dã man mà cháu cũng không khai? - Cháu nghĩ là nếu cháu khai thì sẽ mất hết tình thương của cách mạng, của Bác và của các chú, các cô đã đùm bọc, dạy dỗ cháu lúc cháu ở trong tù. Cháu khai thì cháu có tội với đồng bào. Lúc nào cháu cũng thấy hình ảnh Bác ở trước mặt cháu. Có lúc cháu nằm mơ thấy Bác đứng hai tay chống nạnh trước quân thù, bọn chúng nhìn Bác hoảng sợ chạy hết và cháu được tự do, sung sướng... Có lúc cháu mơ thấy Bác lấy khăn chặm nước mắt khi Bác nhìn cảnh tra tấn cực kỳ tàn ác của giặc Mỹ và lũ tay sai đối với chúng cháu... Nói đến đây, tôi úp mặt trong lòng bàn tay Bác, tôi khóc như một em bé. Bác nâng nhẹ đầu tôi lên. Bác rơm rớm nước mắt nói: - Nghĩ đến cháu, mọi người đều căm thù sâu sắc chế độ Mỹ - Diệm ở miền Nam. Mỗi lời nói, mỗi ánh mắt, mỗi cử chỉ nhỏ nhất của Bác khắc sâu vào tâm trí tôi. Trong giờ phút thiêng liêng này, tôi không thể không nhớ lại những lúc ở tù, gian khổ, đấu tranh với kẻ thù, chúng tôi chiến thắng được là nhờ có hình ảnh Bác trong trái tim. Bây giờ được thật sự ngồi bên Bác, càng nhìn Bác tôi càng nhớ đến các đồng chí ở trong Nam luôn luôn hướng về Bác để có thêm sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Biết bao nhiêu đồng chí bị tù đày, tra tấn, biết bao nhiêu cán bộ hoạt động trên khắp miền Nam chưa một lần được gặp Bác. Tôi có vinh dự lớn hôm nay là do bao xương máu của đồng bào miền Nam đã đổ xuống trên mảnh đất Thành đồng. Bác kể cho tôi nghe những mẩu chuyện lúc Bác hoạt động ở nước ngoài, những mẩu chuyện trong thời kỳ kháng chiến để động viên, cổ vũ tôi cũng như phụ nữ, thanh niên miền Nam dù hy sinh gian khổ đến mấy cũng luôn luôn phát huy truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc ta, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và bè lũ tay sai. Bác căn dặn tôi phải luôn luôn vui vẻ, lạc quan để chiến thắng bệnh tật. Tôi thường được các chú dặn: Hễ gặp Bác thì nhớ kể cho Bác nghe những chuyện vui, đừng kể những chuyện đau thương làm Bác xúc động. Nhưng tôi không tài nào giấu Bác được điều gì. Bác hỏi tỉ mỉ về tình hình gia đình, quê hương tôi. Bác biết tôi ra miền Bắc chữa bệnh xa mẹ hiền, người mẹ đã chịu nhiều đau khổ, đang khát khao được có ngày gặp lại con gái thân yêu, và xa bà con ruột thịt, xóm làng. Có lúc Bác thấy tôi ngồi thờ thẫn, dường như suy nghĩ điều gì. Bác liền hỏi: - Sao cháu lại buồn? Cháu nhớ mẹ à? Bác hỏi chuyện về chị Trần Thị Vân, một người vừa là chị vừa là bạn chiến đấu thân thiết của tôi. Trước đây, có nhiều tin là chị Vân đã hy sinh, sau khi bị địch tra tấn dữ dội. Nhưng thật ra, chị đã vượt qua mọi thử thách ác liệt, bám chắc lấy cuộc sống cho đến ngày trở về với phong trào. Tôi kể cho Bác biết chị Vân đã bị giặc bắt cùng với đứa cháu gái. Bọn chúng chưa nhận được ai là Trần Thị Vân trong hai người. Thế là cô cháu gái liền nhận mình là Vân. Địch giết người cháu gái và chị Vân đã thoát khỏi bàn tay đẫm máu của chúng. Nghe tôi kể, Bác xúc động nói: - Hành động của các cháu thật anh hùng. Phụ nữ miền Nam rất anh hùng. Sau này, chị Vân được ra thăm miền Bắc và ở lại chữa bệnh. Chị đã được gặp Bác Hồ. Bác biết tôi cố gắng học văn hóa, nhưng còn kém về văn. Nhiều lần tôi vào thăm Bác, Bác dặn: - Cháu kém về văn thì phải chăm xem sách, đọc báo, đọc xã luận, nghe các chú nói chuyện. Đọc báo có đoạn nào hay thì đánh dấu vòng lại. Lúc khác cần, đọc lại. Đó là một cách học. Học từ từ, kiên nhẫn. Bác bảo tôi tập viết thư, viết cho Bác. Một lần đi điều trị ở nước ngoài, tôi nhận lá thư đầy tình nghĩa của Bác và tôi trân trọng viết thư về thăm Bác. Tôi chỉ viết được mấy dòng cụt ngủn: "Thưa Bác, hiện nay cháu đang điều trị. Sức khỏe cháu tốt. Các bác sĩ chuẩn bị mổ vết thương cho cháu. Nghe lời Bác dặn, cháu yên tâm chữa bệnh. Bác đừng lo cho cháu"... Tôi moi óc không biết viết thêm gì nữa cho Bác vui. Các chú cười: "Sao viết ngắn thế!" Khi về nước, tôi đến thăm Bác, được Bác khen: - Cháu viết, văn không lòng thòng, ngắn gọn, thế là tốt. Bác nghe các chú bảo là từ lớp hai tôi đã cố gắng khắc phục khó khăn về bệnh tật, học bổ túc văn hóa hết lớp 8. Bác mừng lắm. Nhưng Bác khuyên tôi là không nên học nhiều trong lúc sức khỏe chưa vững vàng. Bác bảo: Phải nghe lời bác sĩ, chữa lành bệnh rồi hãy học. Cháu không sợ lạc hậu đâu. Miễn là ta sẵn có tinh thần. Mỗi lần tôi vào thăm Bác, Bác thường cho tôi ăn cháo đậu xanh vì tôi không ăn được cơm. Lần nào, Bác cũng thấy tôi ăn ít quá, nhìn tôi, Bác lo lắng, thương xót, và nói: - Cháu ăn ít lắm, phải gắng ăn nhiều hơn. Cháu còn xanh quá, cháu cố gắng ăn nhiều cho chóng khỏe! Những bữa cơm của Bác thật thanh đạm, giải dị như bữa cơm của bao gia đình chúng ta. Nhiều lúc, Bác dắt tôi đi dạo chơi trong vườn Phủ Chủ tịch. Bác không đưa tôi đi trên những con đường sỏi vì Bác biết chân tôi dẫm trên sỏi thì ảnh hưởng đến vết thương trên đầu. Bác chỉ cho tôi những cây dừa, cây bưởi, cây cam Bác trồng. Tôi thường đeo một sợi dây chuyền giấu kín trong cổ áo. Sợi dây chuyền không làm tăng vẻ đẹp, không che được những vết sẹo do địch gây nên trên cổ, trên vai tôi, nhưng đó là sợi dây gắn bó hai đứa chúng tôi trong cuộc chiến đấu chung, một mất một còn với quân thù xâm lược. Tôi thưa với Bác, tôi đã viết thư về nhắn với người yêu nhiều lần rằng: Anh hãy quên Lý đi vì thân thể Lý bị tàn phế rồi. Anh nên xây dựng gia đình với người khác để bảo đảm hạnh phúc...". Nhưng anh không chịu. Anh vẫn đợi chờ! Bác dạy tôi rằng: - Ăn ở phải có tình, tình nhà, nghĩa nước, tình yêu thương giai cấp. Phải có tấm lòng chung thủy. Bác rất vui khi nói đến các mối tình chung thủy. Một hôm, Bác nghe tin người yêu của tôi đã ra miền Bắc, Bác tặng cho tôi hai trái táo để mang về cho người yêu một trái. Có lần bác sĩ thấy bệnh tình của tôi kéo dài do vết thương ở bụng vẫn thường rỉ máu và cho biết nếu mổ dạ con thì đỡ ảnh hưởng đến sức khỏe. Tôi muốn mổ cho đỡ khổ nhưng nghe vậy Bác không đồng ý. Bác nghĩ đến tương lai hạnh phúc của đời tôi. Tình thương của Bác đối với tôi thật không bờ bến. Tôi hiểu rằng Bác dành tình thương đó không chỉ riêng cho tôi mà cho toàn thể phụ nữ, thanh niên và đồng bào miền Nam gian khổ đi trước về sau. Tôi còn nhớ một chiều xuân 1968, tôi lại được vào thăm Bác. Các chú cho tôi đến trước giờ hẹn. Bác đang làm việc trên chiếc nhà sàn đơn sơ. Tôi rón rén vào đứng sau lưng Bác. Bác đã biết, nhưng không quay lại, Bác bảo: - Lý đó à. Cháu chờ Bác làm việc xong, một tí thôi! Tôi thưa với Bác: Thưa Bác! Bác làm việc nhiều quá. Tuổi Bác ngày càng cao. Bác giữ gìn sức khỏe để vào thăm đồng bào miền Nam... Bác xúc động nói: - Bác phải làm việc nhiều thì miền Nam mau thống nhất, Bác sẽ vui nhiều, khỏe nhiều. Tôi ứa hai hàng nước mắt và thẫn thờ ngồi nhìn Bác làm việc, lòng nghẹn ngào, không dám nói thêm với Bác một lời nào. Ôi, suốt cuộc đời của Bác, Bác đã đặt hết tâm lực vào cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Từng giờ, từng phút, Bác lo cho miền Nam. Bác đã hy sinh hạnh phúc cá nhân vì nghĩa cả dân tộc. Chú thích: : Tức Trần Thị Lý, Anh hùng LLVTND. (trích từ sách Bác Hồ với đất Quảng, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, tr.170-178) 19. TÀI ỨNG KHẨU CỦA BÁC Bác là một lãnh tụ, nhưng khi hoà mình với nhân dân, không chỉ bằng những lời giáo huấn đơn điệu, mà là sự kết hợp hài hoà giữa tác phong quần chúng, những lời nói bình dị, dễ hiểu và khả nǎng gây cười , sự dí dỏm tự nhiên. Phản xạ, ứng đáp nhanh nhạy trước mọi tình huống ở Bác có nét đặc trưng riêng, đã trở thành thói quen phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận, thích ứng với mọi hoàn cảnh xung quanh. Đó là kết quả của một trí tuệ mẫn tiệp của thái độ, phong cách quần chúng. Bác luôn tạo nên một không khí hoà đồng, một mối liên hệ gần gũi giữa người nói, người nghe, xóa đi những cách biệt, những suy nghĩ tự ti của người dân trước lãnh tụ và đưa lại không khí tự nhiên vốn có giữa con người với con người. Nó không dừng lại ở nghệ thuật ứng xử mà là phản xạ tự nhiên của lãnh tụ rất nhân dân. Một lần tại bữa tiệc do Hầu Chí Minh (người góp phần đưa Bác ra khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch) chủ nhiệm Cục chính trị đệ tứ chiến khu chiêu đãi, hôm đó có Bác và Nguyễn Hải Thần cùng dự. Nguyễn Hải Thần rất tự phụ về vốn Hán học của mình và nhân dịp này đã ra một vế đối: Hầu Chí Minh - Hồ Chí Minh, lương vị đồng chí, chí giai minh (Hầu Chí Minh - Hồ Chí Minh hai vị đồng chí, chí đều sáng). Khi mọi người còn đang nghĩ vế đáp, thì Bác ứng khẩu: Nhĩ cách mệnh ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách (Anh cách mạng tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách). Chỗ khó và hay của vế đối là hai chữ chí và minh là tên của hai nhân vật chính trong bữa tiệc, cái tài tình của vế đáp của Bác là vừa kịp thời, hợp cảnh và chuẩn chỉnh cả ý lẫn từ nhưng nâng tầm nhận thức, tư tưởng cao hơn, mang tính cách mạng hơn. Hầu Chí Minh hết lời ca ngợi người đối đáp đối tuyệt lắm, tuyệt lắm. Nguyễn Hải Thần cung kính thốt lên: Hồ Tiên sinh, tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục. Năm 1946 Bác sang Pháp, người phụ trách làm hộ chiếu xin phép Bác làm thủ tục. Bác vui vẻ nói: Chú cứ hỏi, Bác trả lời đầy đủ. Đến câu thân sinh Bác là gì? Bác cười, trả lời hóm hỉnh: Bác là Hồ Chí Minh thì, ông cụ thân sinh là... Hồ Chí Thông!. Mọi người nhìn nhau cười vui vẻ. Một lần có nhà báo nước ngoài hỏi Bác: Có phải Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc không?. Bác trả lời: Ông cứ đến ông Nguyễn Ái Quốc mà hỏi. Lần khác nhà báo nước ngoài xin phỏng vấn Bác, ông ta đặt câu hỏi: Thưa Chủ tịch, trước hoạt động ở nước ngoài, vào tù ra khám, nay làm Chủ tịch nước. Chủ tịch thấy có thay đổi trong đời mình không? Bác trả lời hóm hỉnh: Không, không có gì thay đổi cả, lúc bị tù ở Quảng Tây luôn luôn có hai lính gác giải đi, lúc trong tù mỗi ngày 5 phút được hai người lính bồng súng dẫn ra dạo chơi. Nay làm Chủ tịch nước đi đâu cũng có hai đồng chí mang súng lục đi theo, ông thấy có gì thay đổi không nào? Lần khác, Bác lên tàu đàm phán với Đô đốc Đác-giăng-li-ơ ở Vịnh Hạ Long, khi gặp, Bác chủ động ôm hôn Đô đốc, các đồng chí đi theo thắc mắc, Bác nói: Đánh nhau thì đánh nhau, mình ôm hôn nó một cái có mất gì. Hôm sau báo chí đưa ảnh và bình luận: Hồ Chủ tịch ôm hôn Đô đốc chính là ôm chặt để bóp chết... Năm 1946, trên đường từ Pháp về Việt Nam đến vùng biển Cam Ranh, Bác nhận đươc bức điện của Đô đốc Đác-giăng-li-ơ xin gặp Bác trong cảng, mục đích của chúng là giễu võ dương oai để uy hiếp tinh thần Bác. Trong bộ quần áo giản dị Bác ngồi giữa một bên là Đô đốc hải quân Pháp, bên kia là Thống soái lục quân Pháp ở Viễn đông với những bộ quân phục sáng loáng các thứ bội tinh, quân hàm, quân hiệu. Đác giăng-li-ơ giọng mỉa mai bóng gió: Thưa ông Chủ tịch ông đã được đóng bộ khung rất đẹp của hải và lục quân đó. Bác thản nhiên mỉm cười: Đô đốc biết đó, giá trị là ở bức họa chứ không phải bộ khung. Chính bức họa đem lại giá trị cho bộ khung. Bất ngờ và cay cú trước tài ứng xử thông minh của Bác, cả hai không dám nói xách mé nữa mà tỏ ra rất lịch lãm và kính phục. Khi bàn về quy định các phù hiệu đi lại trên xe của ủy ban liên hiệp thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, phía Pháp đề nghị trên xe có hai lá cờ một bên của ta một bên của Pháp, còn phía dưới là cờ chính quyền Bảo Đại. Việc được hỏi ý kiến Bác. Bác bảo cứ chấp nhận đi rồi sẽ có những diễn biến lý thú. Đúng như Bác nói, khi xe đi đến đâu dân cũng chế giễu lá cờ ăn theo ngoại bang. Chuyện tếu lan khắp nơi 3 cột 3 cờ có ý nhạo báng cờ Bảo Đại. Bọn bù nhìn ngụy quyền phản đối đòi thay đổi. Ta lấy cớ, đó là ý của Pháp nêu ra. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có một cán bộ cao cấp nước ngoài khi đứng trước hàng quân cứ nói thao thao bất tuyệt nào là chê ta cái này cái nọ, cứ yêu cầu làm theo họ thế này thế kia. Bác nghe, rất bực nhưng không nói gì. Đến giờ nghỉ, cùng ngồi uống nước Bác giới thiệu đồng chí Hoàng Đạo Thuý trước đây là hướng đạo sinh, nay là cán bộ phụ trách công tác thông tin của quân đội. Vị cán bộ nọ hết sức thắc mắc vì sao lại giao một nhiệm vụ quan trọng như thế cho một hướng đạo sinh, Bác bảo: Nước chú khác, nước chúng tôi khác. Ông ta chắc hiểu ý Bác. Đầu năm 1950, Chính phủ Liên Xô mở tiệc chiêu đãi trọng thể Chủ tịch nước láng giềng của ta. Hôm chiêu đãi có mời Bác đến dự. Khi chuyện trò Bác hỏi đồng chí Liên Xô: Các đồng chí đã ký hiệp ước với nhau, nhân dịp tôi ở đây chúng ta cùng ký một hiệp ước với nhau. Chuyến đi của Bác lúc đó là đi bí mật, nên đồng chí Chủ tịch trả lời Bác là: Người ta sẽ nói đồng chí ở đâu đột ngột đến thì không tiện. Bác trả lời: Cái đó dễ thôi, đồng chí cho một chiếc máy bay, đưa tôi bay một vòng trên trời, sau đó cho người ra đón, rồi quay phim chụp ảnh đưa tin là ổn. Năm 1967 Liên Xô quyết định tặng Bác huân chương Lênin. Nếu Bác từ chối không nhận thì không thuận cho quan hệ ngoại giao. Bác vốn xưa nay chưa bao giờ nhận huân chương, lần này Bác có cách từ chối khéo. Bác viết thư chỉ xin hoãn việc trao huân chương, chờ khi nào giải phóng hoàn toàn Tổ quốc lúc đó Bác sẽ thay mặt nhân dân Việt Nam, nhận huân chương cao quý đó. Hôm sau các báo ở Liên Xô đăng trang trọng trên trang nhất quyết định tặng huân chương của Bác. Qua đó nhân dân Liên Xô càng yêu quý Bác hơn. Nhớ lần Bác đến thăm một nông trường ngoại ô Ki-ép, Bác đi xuống nơi công nhân đang lao động, thấy Bác ăn mặc giản dị ai cũng quý, cũng muốn đến gần. Khi đó có một cô công nhân đứng cạnh Bác mạnh dạn hỏi: Thưa Bác, cháu trộm nghĩ một mình Bác chắc không tiêu hết lương Chủ tịch nước? Bác nhẩm tính và vui vẻ trả lời: Thế tính ra lương cháu gấp đôi lương Bác đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, Bác thường đi xuống thăm các đơn vị cơ sở. Một lần đi thăm xưởng quân giới Lê Tổ. Bác trả lời các câu hỏi của anh chị em ngắn gọn dễ hiểu. Có người hỏi, khi nào thì đồng tiền Việt Nam trở lại giá trị như khi nó mới có, Bác trả lời: Khi các cô các chú tăng gia sản xuất tăng hai lần thì nó trở lại hai lần tăng ba lần nó trở lại ba lần. Có người hỏi, Đảng ta sắp ra công khai, vậy Bác có ra không, tên thật Bác là gì? Khi nói đến Bác có ra không? Cả hội trường cùng cười. Bác nói: Đấy, cười là trả lời rồi đấy. Tên thật Bác là Bác. Có câu hỏi: Khi nào thì Bác có Bác gái? toàn thể reo cười, Bác trả lời: Khi nào có thì Bác sẽ trả lời. Câu hỏi tiếp: Phụ nữ các nước dân chủ họ làm gì ạ? Bác trả lời: Họ cũng lao động tăng gia sản xuất, và học hát, các cô các thím thua họ ở chỗ học hát... Năm 1948, nhân ngày phong Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bác vui vẻ ra câu đối Giáp phải giải Pháp. Các vị có mặt gặp thế bí vì câu vế đối nói lái này gói gọn ý Đại tướng Giáp phải giải giáp được thằng Pháp. Ông Tôn Quang Phiệt nhìn Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đọc vế đối Hiến tài, hái tiền Bác khen vế đối hay, đạt cả ý lẫn lời, nên Bác tặng tác giả một quả cam. Sau một cuộc họp lớn, giữa trưa hè nắng đẹp, mọi người đề nghị ra sân chụp chung ảnh với Bác, mọi người đứng đâu vào đấy cả rồi, thợ ảnh cứ chạy bên này bên kia chọn góc chụp, Bác đứng cạnh nhà thơ Tú Mỡ Bác nói vui: - Chú chụp nhanh không thì tất cả bọn này thành Tú Mỡ cả. Mọi người được phen cười vui vẻ. Bác vừa nói theo nghĩa tiếng Pháp (Tout là tất cả, mỡ là mồ hôi) vừa theo nghĩa tiếng ta, ngụ ý dí dỏm, vui vẻ. Đồng chí Nguyễn Đăng Bảy, thời kỳ kháng chiến là phóng viên nhiếp ảnh thông tin Trung ương, khi chụp được một số ảnh của Bác, anh em bàn đưa ra trưng bày triển lãm. Hôm đó Bác tình cờ vào xem. Đồng chí đang hý hoáy trang trí, Bác hỏi: Chú treo được bao nhiêu bức ảnh tất cả?. Đồng chí Bảy trả lời Bác là được tất cả 20 tấm ạ, Bác nói: Hơn chứ, chú đếm lại xem thử. Đồng chí đếm đi tính lại cũng chỉ có 20. Lúc ấy, Bác cười, chỉ vào mình và nói: Còn đây là chiếc thứ 21 chứ. Hôm khai mạc lớp chỉnh huấn có vui văn nghệ. Có đồng chí xung phong lên đọc thơ của Huy Cận, Bác hỏi vui: Cái tác thật (tác giả bài thơ) có ở đây không? Nhà thơ Huy Cận thưa có. Thế thì mời tác thật lên đọc thơ của mình cho nó thật hơn. Sau Bác hỏi: Có chú nào dân tộc Mường lên hát một bài tiếng Mường cho mọi người thưởng thức. Có đồng chí xung phong đọc bài thơ lục bát tiếng Kinh, đọc lơ lớ bỏ hết dấu, Bác bảo đấy không phải tiếng Mường. Bác đến thăm nhà chị Loan (người kéo cờ ở quảng trường Ba Đình ngày 2-9) ở chiến khu vào đến nhà thấy đông con nhỏ, Bác nói vui? Ồ tưởng đây là nhà cô Loan, hóa ra mình vào nhầm nhà trẻ. Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười vả báo cáo: Thưa Bác đây là tiểu đội của vợ chồng cháu đấy ạ, Bác vui vẻ bảo chị tập trung tiểu đội, cứ lần lượt bé nhất đứng trước để Bác chia kẹo, chị đang loay hoay sắp xếp đội hình, Bác bảo: Tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ. Bác chia kẹo cho các cháu và cho cả chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui: Bác khen là cô đã có công nuôi dạy các cháu ngoan. Nhớ lần Bác đến thăm một gia đình cán bộ, thấy ba cháu gái xinh xắn ra chào Bác, Bác hỏi vợ chồng chủ nhà tên các cháu là gì, chị chủ nhà thưa Bác tên các cháu là Thu Thuỷ, Thu Thảo, Thu Vân, Bác cười hiền lành và nói: Sao đặt văn chương: thế, gọi là Thu Ngô, Thu Sắn, Thu Khoai có hay không. Khi ra về Bác bảo Nói vui thế thôi, chứ những tên Việt Nam ấy rất đẹp. Đồng chí Tạ Quang Bửu sinh cháu trai đầu lòng, Bác có chai mật ong, Bác gửi tặng cháu, tự tay Bác viết nhãn hiệu tặng cháu Quang. Thời gian sau, Bác ghé vào thăm nhà đồng chí Bửu, Bác gọi âu yếm Thằng Quang đâu? Thằng xã xệ đâu ra ông bế nào. Rồi Bác chụp ảnh với cháu và không quên gửi tặng ảnh cho cháu. Một lần đến dự cuộc họp Trung ương thấy một cô gái đứng cạnh đường, chào Bác, Bác hỏi, cháu đứng đây làm gì, được biết cô là lính bảo vệ, Bác hỏi vui: Thế cháu bảo vệ Bác thì ai bảo vệ cháu?. Có lần Bác đến thăm một địa phương, đồng chí Bí thư tỉnh ủy đứng lên thưa với Bác, có câu: Thưa Bác Hồ, vị cha già dân tộc, Bác ngoảnh lại nói với mọi người: Bác chưa già đâu. Buổi đó Bác được tặng ba bó hoa, Bác hỏi đồng chí Bí thư: Theo chú thì Bác nên tặng hoa cho ai? Đồng chí trả lời Bác? Thưa Bác, Bác tặng cho phụ nữ, thanh niên. Bác cười và nói vui: Phụ nữ, thanh niên không tặng Bác thì thôi... Bác xuống sân tặng một cụ già cao tuổi nhất, một cháu thiếu nhi và cho bộ đội. Lần Bác tiếp các anh hùng quân đội, Bác hỏi: Chú nào hạ được nhiều máy bay nhất? Thưa Bác đồng chí Cốc ạ. Mọi người đồng thanh trả lời. Bác gọi: Chú Cốc lên đây Bác bắt tay. Bác nói: Năm nay mong chúng ta có nhiều Cốc hơn nữa. Đến thăm đại hội chiến sỹ thi đua toàn quốc, Bác đến gần một cô gái và hỏi: Đơn vị cháu có mấy người trong đoàn? Cô gái lúng túng trả lời: Thưa Bác, chỉ một mình cháu được đi thôi ạ, Bảc dí dỏm: Thế đơn vị cháu nhiều người tiêu cực thế à, chỉ được một mình cháu? Một đoàn cán bộ vào gặp Bác, Bác mời ăn kẹo, nhưng ai cũng nghe Bác nói chuyện chứ không muốn ăn, thấy thế Bác bảo: Không ai ăn kẹo thì Bác cho mang về. Lúc đó Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên; hóm hỉnh nói: Bác cho ta đưa cả về, Bác cười vui nói ngay: Bác cho đưa kẹo về, đĩa phải để lại Bác còn tiếp khách chứ. Nhớ lần đi dã ngoại bữa ăn mang theo có thịt bò, đến bữa ăn đồng chí Vũ Kỳ chỉ vào đĩa thịt, hỏi đồng chí bảo vệ: Đố biết là thịt gì? Đồng chí này trả lời là thịt bò, đồng chí Vũ Kỳ hỏi tiếp: Nhưng mà thịt bò gì chứ? Đồng chí bảo vệ đang băn khoăn chưa kịp trả lời, đồng chí Vũ Kỳ nói tiếp: Đây là thịt bò rừng, loại này đặc biệt lắm, người ta không bắn được nó mà phải dùng muối bỏ vào bẫy rồi mới bắt được nó. Đang lúc lúng túng lại nghe kể có vẻ ly kỳ nên đồng chí bảo vệ chăm chú lắng nghe, tưởng như thật. Thấy vậy, Bác vỗ vai vừa cười, vừa hỏi: Thế Bác đố chú một cân sắt nặng hơn hay một cân bông nặng hơn. Nghe Bác đố, lúc đầu đồng chí định trả lời là cân sắt nặng hơn, nhưng nhìn ánh mắt vui vẻ của Người, đồng chí bình tĩnh cân nhắc khi trả lời là nặng bằng nhau. Bác nói đùa vui: Cân sắt chắc nặng hơn chứ như muốn nói thịt bò nào mà chẳng giống nhau, cái chính là phải trả lời dứt khoát để khỏi người ta vặn vẹo, quanh co. Một lần đến thăm đơn vị bộ đội, đi đường xa trời nắng, nhưng tới nơi Bác đi thǎm anh em ngay, Bác đến thăm nơi ăn chốn ở, thăm nơi sinh hoạt văn hóa, thấy tờ báo tường viết câu Hồ Chủ tịch muôn năm kẻ đẹp nắn nót nhưng không có dấu, Bác bảo vui: Ừ đúng Bác đi mệt, Hồ Chủ tịch muốn nằm, rồi Bác hỏi: Sao viết không có dấu người đọc có thể đọc sai ý. Có đồng chí trả lời Bác là thêm dấu nó mất đẹp đi, Bác nói: Các chú viết đẹp nhưng chưa đúng nên mất đẹp đi đấy, chữ Việt ta rất đẹp khi đúng, đủ dấu càng đẹp hơn. Lần đến thăm xã Sài Sơn, thấy tấm biển treo trên trụ sở Việt Minh xã có dòng chữ không dấu TRU SO VIET MINH Bác liền đọc... Sô viết mình, rồi Bác bảo các chú viết thế ai mà đọc đúng được. Tấm biển được thêm dấu nên rõ ràng hơn, ai mới biết chữ cũng đọc được. Bác vào thăm nông trường Sông Hiếu, cùng đi với đồng chí giám đốc vào trung tâm nông trường, Bác chỉ câu khẩu hiệu viết không dấu, Bác hỏi: ... LAM TRA NOI SONG là gì? Đồng chí thưa Bác câu khẩu hiệu là Hưởng ứng chiến dịch Lam Trà nổi sóng. Bác bảo: Thế thì chú phải cho một người đứng đây để đọc dịch câu khẩu hiệu đó chứ. Khi Bác thăm xong nông trường thì câu khẩu hiệu cũng được sửa xong. Lần Bác đi qua nhà máy cơ khí Gia Lâm, đến trước cổng nhà máy thấy dòng chữ to chạy dài trên cổng nhà máy NHA MAY CO KHI GIA LAM, Bác bèn đọc: Nhà máy có khỉ già lắm. Bác phê bình chữ viết phải có dấu để người đọc khỏi nhầm. 20. SUY NGHĨ VỀ ĐIỀU MONG MUỐN CUỐI CÙNG CỦA BÁC Cùng với “muôn vàn tình thân yêu” gửi lại cho cuộc đời này, Bác Hồ kết thúc bản di chúc bằng “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Theo lời kể của ông Vũ Kỳ trong Bác Hồ viết Di chúc, bốn năm suy ngẫm để chỉ viết có một nghìn chữ ! Sau bốn năm xem lại lần cuối Bác cũng chỉ sửa có ba từ! Ở đây không là chuyện kiệm chữ, kiệm lời. Ở đây là sự dồn nén cô đọng của ý tưởng và tình cảm. Tư tưởng tình cảm như đã được “chưng cất” để chỉ giữ lấy cái tinh túy nhất, sáng tỏ nhất. Vì thế, đọc kỹ nội dung “điều mong muốn cuối cùng” của Hồ Chí Minh, chúng ta ngộ ra được rằng: với thời gian, chân lý bỗng vụt sáng lên từ trong những câu chữ vốn rất dung dị, thô mộc hết sức quen thuộc trong đời sống hằng ngày, khiến người ta đôi khi cứ ngỡ như không còn gì để mà suy ngẫm nữa. Nhìn trở lại hành trình lịch sử của Bác Hồ tìm đường cứu nước, quanh một vòng trái đất để trở về xúc động với nắm đất của Tổ quốc trên tay, rồi những lời “dặn lại công việc” khi bị bệnh nặng sợ khó qua khỏi trong một lán nhỏ ở Tân Trào, Việt Bắc: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, cho đến khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VN dân chủ cộng hòa..., cuối cùng là Di chúc với “điều mong muốn cuối cùng” của Người. Qua đó, nổi rõ lên một điều: độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu trước sau như một của Hồ Chí Minh. Người nói “lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Cho đến “lúc cuối”, trong toàn bộ Di chúc của Người cũng thể hiện nhất quán “chủ nghĩa yêu nước” đó, thể hiện thật tập trung trong “điều mong muốn cuối cùng” và cũng là câu cuối cùng, đọng lại tình cảm, ý tưởng quan trọng nhất trong Di chúc. Hồ Chí Minh đã hiểu rõ rằng dân tộc mình, nhân dân mình đang cần cái gì nhất. Nói đến điều đó thì tất cả mọi người Việt Nam, dù bất cứ đang ở đâu, đang làm gì cũng đều có thể hiểu được, đều có thể chấp nhận, đều có thể nhất trí, đều có thể nhận ra đó là mong muốn của mình. Cần phải thấy rằng sự gặp gỡ giữa lý tưởng “ái quốc” và lý tưởng “cộng sản” trong tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ của lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người . Trong đó, giải phóng con người là trung tâm. Nhìn lại nhân cách, tư tưởng, tình cảm và sự nghiệp hoạt động của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rất rõ: mục tiêu, cứu cánh, phương tiện và động lực cách mạng đều ở trong con người. Chính ở đây, chủ nghĩa yêu nước trong Hồ Chí Minh bắt gặp lý tưởng cộng sản. Lý tưởng đó thể hiện tập trung ở tư tưởng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Có thể nói, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” là tư tưởng đẹp nhất trong vô vàn những tinh hoa tư tưởng của loài người được đúc kết trong học thuyết khoa học của C.Mác. Và nếu, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giải phóng con người là trung tâm thì có thể hiểu được động lực thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc đến với lý tưởng cộng sản theo cách của mình. Người cộng sản VN tự hào vì có Hồ Chí Minh, có tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đem lại nguồn sức mạnh vô tận của lý tưởng cao đẹp đang dẫn dắt cuộc phấn đấu không ngừng nghỉ của mình, theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với một trái tim lớn chứa đựng “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”, Người trở thành nhà cách mạng từng trải, được thử thách và tôi luyện trên trường quốc tế bằng cái tầm trí tuệ của một nhà văn hóa lớn. Vì thế, Hồ Chí Minh hiểu rõ những thành tựu cũng như những sai lầm mà phong trào cách mạng đã trải qua. Người hiểu cần thanh lọc và tiếp nhận những gì có lợi nhất cho mục tiêu đã xác định. Hồ Chí Minh đứng vượt hẳn lên những người đương thời ở tầm tư duy và cái nhìn biện chứng nhờ vào những phẩm chất ấy. Bôn ba khắp năm châu bốn biển, hiểu rõ ngọn ngành những tinh hoa cũng như những khuyết tật mà phong trào cách mạng đã trải qua, để khi về đến Tổ quốc, hôn nắm đất quê hương đang đói nghèo, đau khổ, Người hiểu rõ cần phải làm gì cho nhân dân. Ba mươi năm, nhìn lại chặng đường đã đi nhằm thực hiện mong ước của Bác Hồ “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” với những điều đã làm được và nhiều điều chưa làm được, càng thấm thía và không thể không day dứt khi nghĩ đến điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ. Thấm thía và day dứt để có những giải pháp và hành động thiết thực. Theo_TuoiTre Sẽ tiếp tục cập nhật... !
Tiếp tục.... 21. Bác cũng phải có giấy mà Chiến sĩ Lý Phúc Nha được đại đội trưởng phân công bảo vệ một khu vực quan trọng trong địa điểm tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, năm 1951 tại Kim Bình, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Đại đội trưởng dặn: “Khu vực đơn vị ta bảo vệ là cả con người, thì nơi này là bộ óc. Mặc dầu các đại biểu đã có giấy ra vào và phù hiệu, nhưng phải kiểm tra thật kỹ để bảo đảm nghiêm mật”. Lúc sau, Nha thấy một cụ già người cao, đội nón cũ, quần xắn đến đầu gối, chân đi dép cao su, vai mang túi vải, xăm xăm đi về phía mình. Ông cụ hiền từ hỏi: - Chú gác ở đây à ? - Dạ ! Thấy ông cụ định bước vào khu vực cấm, Nha bối rối, vội hỏi: - Cụ cho cháu xem giấy ra vào ạ. - Bác đây mà, chú cũng hỏi giấy ư ? Một cán bộ vừa đi đến, thấy thế cũng bảo: - Bác đấy, thế mà đồng chí cũng hỏi giấy thì lạ thật ! - Bác cũng phải có giấy mà ! Có giấy thì mới được vào mà ! Người cán bộ toan gắt với Nha, thì ông cụ đã bảo anh ta đi gọi cán bộ đại đội và ôn tồn hỏi: - Chú người dân tộc gì ? Quê ở đâu ? Vào bộ đội lâu chưa ? Lúc này Nha mới thấy ông cụ quen quen, lại hỏi han thân mật, bèn thưa: - Dạ, cháu người Sán Chỉ, quê ở Thái Nguyên, vào bộ đội được hơn một năm rồi ạ. Giữa lúc ấy, đại đội trưởng chạy tới, vẻ hốt hoảng: - Bác Hồ đấy mà, sao đồng chí không để Bác vào nhà của Bác? Nha sung sướng vì được gặp Bác Hồ, nhưng lại bối rối tự trách mình sao lại đi hỏi giấy Bác. Bác tươi cười: - Chú làm nhiệm vụ như vậy là tốt. Nghe Bác nói thế, Nha mới hết lo. Sáng hôm sau, hết giờ thể dục, Bác gọi Nha và cán bộ chỉ huy lên gặp. Bác bảo mọi người ngồi, rồi Bác tự tay rót nước mời. Đoạn, Bác lấy trong cuốn sách ra một tấm ảnh của Bác, cầm bút ghi mấy dòng chữ phía sau, trao cho Lý Phúc Nha và nói: - Chú Nha mới vào bộ đội chưa biết Bác. Hôm qua thấy Bác không có giấy nên không cho vào nơi quy định, như vậy là đúng và đáng khen. Bác thưởng chú Nha chiếc ảnh của Bác. Còn đại đội trưởng và chính trị viên trao nhiệm vụ cho chiến sĩ chưa rõ, lại chưa giới thiệu cho chiến sĩ biết Bác, làm trở ngại đến công việc, Bác phê bình. Các chú có đồng ý không ? Từ chỗ Bác trở về, Nha sung sướng và cảm động, nhưng cứ thương đại đội trưởng và chính trị viên vì mình mà bị phê bình. 22. Bác Hồ dặn nước thì không được chia 1/ Năm 1968, một người lính của đại đội 4, tiểu đoàn 2 Nghệ An đỏ thuộc trung đoàn 27 Xô-Viết Nghệ Tĩnh ( Nay là trung đoàn 27 - Triệu Hải), trong cùng một trận đánh tại bắc đường số 9, Quảng Trị đã dùng khẩu B41, lần lượt bắn tiêu diệt 6 xe tăng địch, trở thành dũng sỹ diệt tăng nổi tiếng mặt trận B5. Người lính đó là trung đội phó Lê Nhật Tụng. Và với chiến công đặc biệt xuất sắc đó, tháng 5/1969, Lê Nhật Tụng được vinh dự đại diện cho các chiến sĩ quân giải phóng đường 9 Quảng Trị, tham gia cùng đoàn đại biểu dũng sĩ quân giải phóng Miền Nam ra Hà Nội dự đại hội chiến sĩ thi đua, và cũng trong dịp này, Lê Nhật Tụng đã có được niềm hạnh phúc tột cùng khi được tham gia đoàn đại biểu dũng sĩ quân giải phóng miền Nam thăm, chúc thọ Bác Hồ. Để rồi, ngày trở lại đơn vị, trong hành trang của mình, ngoài chiếc huy hiệu Bác Hồ do chính người tự tay trao, gắn trên ngực trái của Lê Nhật Tụng, cùng tấm ảnh Lê Nhật Tụng đang cùng các dũng sĩ miền Nam quây quần bên Bác, còn có nguyên những câu chuyện cảm động về Bác Hồ được Lê Nhật Tụng kể lại cho các đồng đội chúng tôi, thực sự trở thành niềm tự hào và là bài học sâu sắc đã trực tiếp trở thành động lực tác động đến ý chí, nhân cách những người lính trung đoàn 27 Xô-Viết Nghệ Tĩnh, giúp chúng tôi vượt qua những cam go, thử thách, những hi sinh xương máu trong suốt chặng dài chiến tranh giải phóng tại chiến trường Bắc Quảng Trị - tuyến đầu và là nơi thử lửa của những người lính giải phóng… Và một trong những câu chuyện cảm động được kể đi kể lại nhiều lần xen giữa mưa bom bão lửa đó là câu chuyện và là bài học về ý chí chiến đấu vì độc lập tự do của Bác Hồ được Lê Nhật Tụng truyền kể. Hôm đó, mặc dù tuổi Bác đã cao, sức khoẻ Bác không được tốt như trước, nhưng Bác Hồ vẫn dành cả một khoảng thời gian khá dài để tiếp và thăm hỏi các cháu nam nữ dũng sĩ miền Nam. Trên bàn tiếp khách được bày sẵn những đĩa kẹo, bánh, trái cây. Và mặc dù Bác liên tục nhắc mọi người ăn kẹo, uống nước, nhưng trong một không khí ấm áp tình cha con, bác cháu quây quần bên nhau, nên cả đoàn như quên hẳn các đĩa kẹo, bánh, nước trà trên bàn. Cứ vậy, sau những lời thăm hỏi, động viên và tự tay mình gắn Huy hiệu của Bác cho từng người, Bác Hồ chia tay với đoàn. Nhưng ra đến cửa, Bác sực dừng bước, ngoảnh về phía dãy bàn còn nguyên các đĩa kẹo bánh, và bình nước trà rồi dặn: - Kẹo bánh của nhân dân cho đó, các cháu ăn không hết thì chia nhau mang về. Và bất ngờ Bác nhấn mạnh từng lời - còn nước thì nhất định không được chia! Lời dặn thật bất ngờ, và càng không ai ngờ, đó là lần cuối cùng những người lính giải phóng, những người con dân đất Việt có mặt hôm đó trong lễ mừng thọ lần cuối cùng của Người được nghe trực tiếp lời Người dặn dò: -Nước thì nhất định không được chia! Vâng, đó chính là lời dặn, và cũng khát vọng thống nhất đất nước mà vị cha già dân tộc đau đáu suốt cả cuộc đời, thực sự là bài học về ý chí chiến đấu, hi sinh vì “độc lập tự do”, trở thành hành trang cho mỗi người lính chúng tôi đi tiếp suốt chiều dài chiến tranh, tiếp tục thực hiện ý chí, lời thề và là khát vọng thiêng liêng của mỗi con dân đất Việt: Vì độc lập tự do, vì sự nghiệp thống nhất đất nước - Nhất quyết nước không được chia 2/ Đêm 3/9/1969. Trên đường vượt dốc cao điểm 405 để chuẩn bị cho trận đánh tới, chúng tôi nhận được hung tin Bác Hồ qua đời. Mệnh lệnh của đơn vị gấp rút trở về hậu cứ chịu tang Bác. Sững người như chết lặng giữa sườn núi, bất chợt trong tôi một nỗi tiếc nuối khôn nguôi. Vậy là vĩnh viễn tôi không còn có cơ hội thực hiện mơ ước một lần được gặp và mừng thọ Bác Hồ như người đồng đội tôi đã từng. Ngước về hướng thác nước đổ về đầu suối Cù Đinh, những câu chữ như theo bóng hình Bác bỗng đổ về thành lời: Chông chênh dừng nghỉ lưng sườn dốc Đêm về gió núi lạnh tái tê Vẳng nghe suối đổ như triều dậy Vẫn ấm lòng con, bóng Bác về Vâng, lúc đó và mãi sau này, dẫu chúng tôi đã vĩnh viễn không bao giờ có cơ may được gặp Bác như người đồng đội của chúng tôi. Nhưng trong suốt chặng dài của hành trình chiến tranh giải phóng, trong một chuỗi những câu chuyện cảm động, sâu sắc và cũng là bài học về ý chí chiến đấu, về khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của Bác Hồ, cho đến bây giờ trong cuộc đối đầu với mọi cám giỗ thời bình, với những mưu đồ chiến tranh diễn biến hoà bình của kẻ thù, bài học đó vẫn còn nguyên giá trị. Và mãi mãi, Bác Hồ vẫn luôn hiện hữu song hành cùng những người lính trong từng chặng gian nan trận mạc với lời dặn như tạc vào lòng mỗi người lính giải phóng rằng: - Nước thì không được chia! Tác giả ngồi cầm cờ cùng đồng đội trước khi bước vào chiến dịch lập công dâng Bác (năm 1970) Ảnh Trần HợiTheo Lê Bá Dương - Viết nhân ngày giỗ Bác. 23. BÁC CHO TÔI CHIẾC ÁO TRẤN THỦ Mỗi ngày sống bên Bác là mỗi ngày tôi được thêm những bài học vô cùng quý báu. Bác chỉ bảo từng ly từng tí. Một kỷ niệm mà mỗi khi nhắc lại tôi thường bồi hồi xúc động, đó là chuyện Bác cho tôi chiếc áo trấn thủ. Áo trấn thủ Mùa đông năm ấy, Việt Bắc rét hơn mọi năm. Chúng tôi sống trong hang đá, lại càng rét. Sáng ra sương muối xuống dày đặc, làm cóng buốt chân tay. Khi mới về công tác với Bác, tôi chỉ có một bộ quần áo vải mộc. Mấy hôm liền, tôi đi công tác, ngực bị lạnh, làm tôi ho luôn. Hôm ấy vào đưa thư cho Bác. Tôi đã cố nhịn ho nhưng không sao chịu được. Thấy tôi ho, Bác hỏi: - Chú ốm à, chú Thắng? - Thưa Bác, không ạ! Bác nhìn tôi: - Sao trông người chú khác thế? - Không ạ. - Chưa nói xong tôi đã ho rũ ra… Bác liền đứng dậy: - Chú không có áo rét à? Bấy giờ cán bộ còn nghèo. Tôi ngần ngừ định không nói thật, nhưng rồi không dám dối Bác. Trả lời xong, tôi quay ra thì Bác gọi lại và đến đầu giường lật tấm chăn mỏng, lấy ra chiếc áo trấn thủ màu ngả vàng, Bác vẫn thường mặc, đưa cho tôi, Bác nói: - Chú mặc tạm cái này cho đỡ lạnh. Mùa đông cốt nhất phải giữ ngực cho ấm. Tôi không dám cầm. Mùa rét, Bác cũng chỉ có một chiếc áo trấn thủ và một chiếc áo khoác ngoài. Mà Bác đã già rồi, ít chịu được rét. Thấy tôi chần chừ, Bác bảo: - Chú mặc đi, cho đỡ rét. - Thưa Bác... - Chú cứ mặc vào. Nhìn đôi mắt trìu mến của Bác, tôi không dám từ chối nữa. Bác giúp tôi cài cẩn thận từng cúc áo một. Có chiếc áo của Bác, ngực tôi ấm dần. ấm bằng hơi ấm của bông và cả bằng tình thương của Bác. Nhờ có chiếc áo trấn thủ tôi dần dần khỏi ho. Tôi giữ gìn chiếc áo Bác cho rất cẩn thận. Chỉ những lúc thật rét mới mặc. Tôi có ý định giữ chiếc áo đó làm kỷ niệm, nhưng tôi không thực hiện được ý định. Một năm, tôi về nhà ăn Tết, dân tộc Dao chúng tôi sống du canh du cư, làm ăn thất thường, nên đời sống đói khổ. Trời rất rét, bố tôi vẫn chỉ có một manh áo mỏng. Thương bố quá, tôi đã biếu bố chiếc áo trấn thủ. Chiếc áo trấn thủ đã sờn, nhưng là chiếc áo ấm đầu tiên trong đời bố tôi được mặc. Bố tôi vui lắm. Nếu biết là chiếc áo của Bác Hồ cho, chắc bố tôi sẽ vui sướng biết chừng nào! Nhưng vì nguyên tắc bí mật, tôi không dám nói. Bố tôi mặc được mấy năm chiếc áo vẫn còn tốt. Theo phong tục người Dao, khi chết, người ta chôn theo tất cả những đồ quý giá của người đó lúc sống đã dùng. Bố tôi chết, gia đình cũng đã bỏ chiếc áo trấn thủ chôn theo. Chiếc áo trấn thủ Bác cho đã làm ấm ngực tôi, sưởi ấm ngực bố tôi, nay bố tôi đã mất, chiếc áo lại theo xuống suối vàng mãi mãi sưởi ấm cho linh hồn bố tôi. Phải chăng đó cũng là một niềm vinh hạnh cho gia đình chúng tôi. Triệu Hồng Thăng (Nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc) kể (trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb CTQG, H.2005) 24. BÁC HỒ VỚI VIỆC SỬ DỤNG NHÂN TÀI Lần đầu tiên Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh là lúc ông cùng kiều bào ta ở Pháp ra sân bay đón Bác - năm 1946, khi ấy Người sang thăm nước Cộng hoà Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp. Bác Hồ và Giáo sư - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa Ông có vinh dự được tham gia đoàn đại biểu thay mặt Hội Việt kiều tại Pháp đến thăm Bác, nghe Bác kể về tình hình trong nước và đề nghị kiều bào ta báo cáo tình hình hoạt động. Ông đã cùng với Bác đi thăm bà con Việt kiều, thăm Đảng Cộng sản Pháp và các danh lam, thắng cảnh. Trong các cuộc đi thăm đó, Bác ăn mặc rất giản dị. Bác đi dép cao su, nơi nào có sân sạch là bác ngồi xuống, nhân dân lao động và trẻ em quây quần xung quanh Bác. Bà con Việt kiều ở Pháp lúc đó rất tin tưởng ở Người. Sau một thời gian cùng Bác đi thăm các nơi, một hôm Bác nói với ông: - Ngày kia, Bác về nước, chú có về cùng Bác? Bác không hỏi là ông có muốn về hay không. Tuy vậy, đối với ông, việc về nước đã được chuẩn bị từ lâu, nên không có gì cập rập. Ngoài ông ra, còn có hai người cùng về với Bác là: Võ Quy Huân và bác sĩ Trần Hữu Tước. Bác cháu cùng nhau về nước trên một chiếc tàu chiến của Pháp. Sau khi về nước một thời gian ngắn, Bác giao cho ông chức Cục trưởng Cục quân giới. Trong kháng chiến chống Pháp, những năm đầu Bác gửi thư cho ông, động viên và nhắc nhở là trong chiến tranh nhân dân phải làm sao để các địa phương có thể tự túc được lương thực và huy động được lực lượng tại chỗ, có vũ khí tiêu diệt Pháp. Chúng ta phải tự sản xuất lấy vũ khí. Đó là quan điểm chiến tranh nhân dân. Năm 1950, Bác chỉ định ông kiêm chức Thứ trưởng Bộ Công thương, ông có dịp gặp Bác thường xuyên ở các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Có lần, Bác nói với ông, đại ý: - Nếu vì những lý do nào đó mà cản trở công việc của chú, thì chú hãy báo cáo cho Bác biết. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những ý kiến do ông đề xuất đều được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng chấp nhận, tạo điều kiện thuận lợi làm việc. Khi chúng ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bác nói: - Tôi đem chú Nghĩa về để kháng chiến. Bây giờ cuộc kháng chiến vô cùng ác liệt, chưa biết diễn biến sẽ ra sao, chú Nghĩa đang ở Hà Nội, tại sao không mời chú ấy tham gia quốc phòng. Sau đó, Bác chỉ định ông làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, với tư cách là Thư ký quốc phòng. Ba tháng sau, đồng chí Lê Đức Thọ mời ông tới nhà riêng và nói: - Anh làm ba nhiệm vụ một lúc thì nặng quá, cho nên chức vụ "chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước" để trên cử người khác thay. Sau này, ông mới biết là Bác không đồng ý. Bác nói với các đồng chí trong Bộ Chính trị: - Chú Nghĩa hồi kháng chiến chống Pháp làm bao nhiêu nhiệm vụ mà cũng làm được (Cục trưởng Cục Quân giới, Cục trưởng Cục Pháo binh, Thứ trưởng Bộ Công thương). Tại sao sau mấy chục năm chú ấy lại không làm được ba việc? Cách đối xử của Bác với đồng chí Trần Đại Nghĩa đã thể hiện sự chung thuỷ, có trước có sau - một trong những đức tính quý báu của Người. Đức tính quý báu ấy là tấm gương để chúng ta học tập. Giáo sư - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa Câu chuyện trên đây còn là bài học về sử dụng nhân tài. Hiện nay ở nước ta đã và đang có hiện tượng chảy máu chất xám. Nếu không có sự thay đổi thì hiện tượng này sẽ còn tiếp diễn. Những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi của các trường đại học trong nước đều không muốn làm cho các cơ quan nhà nước, vì thu nhập thấp. Các em vào làm ở các công ty liên doanh của nước ngoài có lương cao. Còn sinh viên có học bổng đi học tại các nước, nhiều em không trở về nước làm việc, bởi chế độ đãi ngộ, lương và điều kiện làm việc thấp. Như vậy chúng ta đã lãng phí rất lớn, bởi số tiền đưa các em đi đào tạo ở nước ngoài không phải là nhỏ, trong lúc đó đất nước ta còn nghèo. Vậy mà ngay từ năm 1946, khi mới giành được độc lập, đất nước ở trong tình thế vô cùng khó khăn, Bác đã tìm mọi cách thu hút nhân tài để phục vụ đất nước. Bài học này cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Trích theo sách: Kỷ niệm về Bác, Nxb. thông tấn, H, 2005, tr.71. 25. BỨC THƯ HUYẾT LỆ 8 giờ đêm - một đêm tháng Chạp năm 1946 - bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hợp chiến thương quá đặc biệt và rất đau lòng: một chiến sĩ "sao vuông" rất trẻ, tuy vết thương nặng, đạn xé tung cả một khúc ruột mà miệng vẫn mỉm cười, cái nụ cười quá quen thuộc và thân thương đối với bác sĩ. Anh tự vệ Thủ đô ấy, người chiến sĩ gan góc ấy lại chính là Vũ Văn Thành, con trai út của bác sĩ. Suốt ngày hôm ấy, tôi đã phải mổ cưa gắp đạn và khâu vết thương cho hàng chục chiến sĩ nhưng đến trường hợp con tôi, thần kinh tôi căng lên một cách kinh khủng. Mấy người giúp việc khuyên tôi nên nghỉ tay, nhưng tôi vẫn cố kìm mình để giữ bình tĩnh gắp mảnh đạn cuối cùng trong thân thể người con. Xong việc, tôi loạng choạng rời khỏi bàn mổ. Các bác sĩ và những người giúp việc đã cố gắng nhiều, nhưng vết thương do quân thù gây ra quá nặng đã cướp đi mất Thành, con trai của tôi, anh của Thành là Vũ Đình Tín, tự vệ chiến đấu cũng vừa bị mất sau ngày Tổng khởi nghĩa, tôi đau đớn đến bàng hoàng. Một buổi chiều trời rét lắm, sau đêm Nôen cuối cùng ở bệnh viện Bạch Mai, bị bom đạn tàn phá, vào lúc tôi mổ xong một ca thương binh nhẹ thì bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trân trọng trao cho tôi một bức thiếp của Hồ Chủ tịch. Tôi cảm động quá. Mới đầu tôi cứ ngỡ là một mệnh lệnh mới của Người. Nhưng thật không ngờ, đó lại là một bức thư riêng đầy tình cảm lớn lao của Bác chia đau thương với gia đình tôi. Khi đó, Bác gọi tôi là "Ngài". "Thưa Ngài, Tôi được báo cáo rằng: con giai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước - Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ luôn luôn sống với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ. Ngài đã đem món quà quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây, chắc Ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng. Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn Ngài, và gửi Ngài lời chào thân ái và quyết thắng. Tháng 1-1947 Hồ Chí Minh" Đọc xong bức thư, tôi thấy bàng hoàng. Bác bận trăm công nghìn việc, thế mà Bác vẫn nghĩ đến tôi, một gia đình đang có cái tang đau lòng như hàng vạn gia đình khác. Tôi thấy nỗi đau thương và sự hy sinh của gia đình mình trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hy sinh cao cả của Bác đối với cả dân tộc. Tôi nhủ mình sẽ phải làm tốt công việc để xứng đáng với sự hy sinh của các con và khỏi phụ lòng Bác. Sau đó, tôi theo Bác lên Việt Bắc - căn cứ thần thánh của cách mạng Việt Nam. Từ một người thầy thuốc của xã hội cũ, một giáo dân ngoan đạo, tôi đã trở thành một người thầy thuốc tốt, một Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội của nước Việt Nam mới. Vũ Đình Tụng kể, Lê Thân ghi, theo báo Nghệ An, tháng 9-1994 26. CHUYỆN CÂY VÚ SỮA MIỀN NAM TRONG VƯỜN QUẢ BÁC HỒ Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Việt Nam tạm thời chia cắt làm hai miền Nam Bắc, đồng bào miền Nam sống dưới ách chiến đóng của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Dù chịu nhiều gian khổ hy sinh nhưng đồng bào miền Nam vẫn luôn hướng về miền Bắc, về Đảng và Bác Hồ kính yêu. Đầu năm 1955, trên con tàu Kilinki (mang quốc tịch Ba Lan), đoàn cán bộ của Văn phòng Trung ương Cục miền Nam tập kết ra Bắc. Đoàn vinh dự được mang cây vú sữa miền Nam ra biếu Bác Hồ, thể hiện tấm lòng kính yêu vô hạn của đồng bào miền Nam đối với Bác. Bà mẹ liệt sĩ Lê Thị Sảnh (còn gọi là mẹ Tư Tố) ở Ranh Hạt thuộc ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, là người đã trao cho đồng chí chỉ huy Đại đội 370 pháo binh, Tiểu đoàn 307 cây vú sữa cao 2 tấc được ươm trồng trong một chiếc bình tích bằng sành. Ngày mồng 3 tết năm ấy, đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh (người phụ trách đoàn) đã đưa cây vú sữa vào Phủ Chủ tịch kính tặng Bác Hồ. Bác vô cùng xúc động khi được biết đây là cây vú sữa của đồng bào tận vùng đất mũi Cà Mau gửi tặng. Cây vú sữa được Bác trồng ngay gần bờ ao, bên cạnh ngôi nhà 54, nơi Bác ở 4 năm đầu sau khi chuyển về khu Phủ Chủ tịch. Bác Hồ chăm sóc cây Vú sữa của đồng bào miền Nam gửi tặng Người (12/1957) Cây vú sữa vốn là loài cây ưa khí hậu nóng ở miền Nam và ít chịu được lạnh ở miền Bắc, do vậy, những ngày đầu mới trồng, cây còn nhỏ và rất khó chăm sóc. Hàng ngày, mặc dù bận nhiều công việc, nhưng trước giờ làm việc buổi sáng, hay sau giờ làm việc buổi chiều, Bác đều dành thời gian tự tay chăm sóc, vun tưới cho cây vú sữa với tất cả tình cảm sâu nặng Bác dành cho đồng bào miền Nam. Mùa đông giá rét, Bác nhắc các đồng chí phục vụ bện rơm quấn quanh thân cây, lấy mùn tấp vào gốc để chống lạnh cho cây. Mùa mưa bão, Bác nhắc nhở anh em chằng chống cho cây khỏi đổ. Hình ảnh Bác Hồ chăm sóc cho cây vú sữa đã làm xúc động hàng triệu trái tim người dân Việt Nam, đặc biệt là nhân dân miền Nam - thành đồng của Tổ quốc. Tháng 5-1958, Bác chuyển sang sống và làm việc tại ngôi nhà sàn. Tuy ngôi nhà sàn cách ngôi nhà Bác ở đầu tiên không xa (chỉ khoảng hơn 100m) và hàng ngày Bác vẫn về bên đó ăn cơm, tiếp khách nhưng cuối năm đó, Bác đã đề nghị chuyển cây vú sữa trồng ở phía sau nhà sàn để Bác chăm sóc được thuận tiện hơn. Dường như Bác muốn cây vú sữa miền Nam luôn ở gần bên Bác. Hàng ngày, làm việc tại nhà sàn, Bác vẫn nhìn thấy cây vú sữa để hình ảnh miền Nam luôn trong trái tim Người. Có lẽ những tình cảm yêu thương sâu nặng nhất Bác dành trọn cho đồng bào miền Nam. Đồng chí Phan Văn Xoàn, bảo vệ Bác từ năm 1955-1969 kể lại: Có lẽ những tình cảm yêu thương sâu nặng nhất Bác dành trọn cho đồng bào miền Nam. Cây vú sữa, tấm bản đồ, đó là những nơi Bác thường đối diện, trầm tư. Nhờ sự quan tâm chăm sóc của Bác và những đồng chí phục vụ, cây vú sữa lớn dần, cành lá xum xuê và vươn cao, rễ đâm sâu vào lòng đất, đủ sức chống đỡ mưa to gió lớn. Bác căn dặn những người làm vườn rút kinh nghiệm để chăm sóc cây vú sữa ngày càng tốt. Khi cây vú sữa ra hoa, kết quả, những lứa đầu cây ra quả, quả nhỏ và không sai. Thấy vậy, Bác nói với các đồng chí phục vụ: "Có lẽ mình chưa biết rõ cách chăm bón nên cây ra quả nhỏ và không nhiều". Các đồng chí phục vụ thưa với Bác là cây vú sữa này do không hợp với khí hậu miền Bắc nên cho quả ít và nhỏ. Bác suy nghĩ một lát rồi nói: "Các chú có nhớ, khi đi thăm Hồ Tây với Bác, các chú đã thấy cây vú sữa ở đó ra nhiều quả và quả lại to không? Các chú cần tìm các nhà chuyên môn làm vườn để học hỏi thêm kinh nghiệm trồng cây vú sữa" (Bên Hồ Tây có một nhà nghỉ dành cho cán bộ, chiến sĩ miền Nam. Anh chị em cũng đã trồng và chăm sóc một cây vú sữa ở đây). Anh em phục vụ làm theo ý Bác. Với những phương pháp chăm sóc mới, cây vú sữa cho quả nhiều và to hơn. Thấy vậy, Bác rất vui. Có lần, đồng chí phục vụ hái quả vú sữa chín cây mời Bác, Người nói: "Chú hãy chờ cho quả chín đều, hái một lần rồi chia cho mọi người". Cây vú sữa trong vườn Bác nay đã trở thành biểu tượng về tấm lòng của Bác luôn nhớ tới đồng bào miền Nam ruột thịt phải chịu nỗi đau chia cắt đất nước. Từ khi Bác về cõi vĩnh hằng, các cán bộ nhân viên Khu di tích vẫn thay Bác chăm sóc, vun xới và giữ gìn cây vú sữa như lúc sinh thời Người. 27. CỤ KHÁCH LẠ DỄ MẾN Sinh thời, cụ Nguyễn Thị An, người làng Phú Gia nay thuộc xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội thường kể với mọi người về bóng dáng và niềm vui của ông cụ khách lạ mặc bộ đồ dân dã, đeo túi vải đơn sơ, bước vào nhà cùng với hàng chục cán bộ, chiến sĩ tùy tùng. “Cụ khách lạ có nét mặt vui tươi, phấn khởi và thái độ cởi mở một cách khác thường, làm cho mọi người trong nhà tôi cũng vui lây. Đúng thế, cụ cố Phó Trường là bố chồng cụ An, đang nghỉ ở ngôi nhà bên trong hay tin có khách lạ vội vàng mặc áo the dài, chít khăn nhiễu tím lên đầu rồi chống gậy sang đến thềm nhà, luống cuống đặt gậy và chắp tay định vái chào, thì cụ khách lạ ấy đã vội ra đỡ cụ cố Phó Trường bước lên thềm và nói: - Ấy, ấy chúng ta là anh em với nhau thôi cụ ạ! Bà Kha gái là con dâu cụ An cũng kể lại: - Hôm ấy, tôi vui quá cứ đứng ngây ra nhìn ông cụ, đến nỗi anh Hoàng Tùng hỏi mượn cái nồi to đun nước tắm cho cụ mà tôi cứ ậm ừ vâng dạ, rồi quên khuấy mất. Bà Công Thị Mai, con gái đầu lòng của bà Kha năm đó mới hơn 2 tuổi, thấy cụ khách lạ tính tình cởi mở vẫy lại gần để ẵm, liền xăm xăm bước đến ngay, sà vào lòng cụ khách ngồi chơi hớn hở. Hôm ấy, cụ An cũng chưa biết ông cụ đó là Cụ Hồ, nhưng đoán chắc rằng cụ là thượng cấp của các anh các chị làm cách mạng từng đi về ở nhà cụ lâu nay, và lại có cảm tình ngay với cụ khách lạ đó nên vội đi bắt con gà nhà nuôi làm cơm thết đãi cụ. Khi mâm cơm thịnh soạn vừa được bưng lên thì chị Sáu, cán bộ trong đoàn mới biết vội gọi cụ An ra ngoài hiên nói nhỏ : - Chị phải nói khéo cách nào đó, chứ không thì ông cụ không chịu ăn đâu, mà còn phê bình cho đấy. Cụ An vội chạy vào nhà chắp tay cung kính: - Thưa cụ, theo tục lệ dân làng cháu ở đây, khi có khách tới chơi mà mình có nuôi gà lại để khách ăn cơm thường thì trong lòng vô cùng áy náy, bà con xóm ngõ lại chê cười. Hôm nay, lần đầu tiên được đón cụ đến nhà, nhân thể có con gà của gia đình tự chăn nuôi, nó đã bị dập trứng nên giết, chứ không phải là của mua bán gì, mời cụ cùng anh em xơi bữa cơm nhạt với gia đình. Cụ An khẩn khoản như vậy nên xem ý Bác cũng không còn cách nào từ chối được, nên Bác chỉ nhắc qua: - Gia đình cứ coi chúng tôi như người trong nhà chứ không phân biệt khách khứa gì, các bữa sau đừng bầy vẽ tốn kém như thế nữa nhé! - Thưa cụ vâng ạ! Cụ An nhẹ nhõm trong lòng, vui hẳn lên và rất cảm động khi thấy cụ khách già không chịu ăn riêng một mâm đặt trên bục gỗ, cơm chứa trong cái soạn sứ cổ đẹp, mà đưa xuống ngồi chung với anh em. Khi ăn hết bát cơm, cụ tự đi xới ở nồi như mọi người khác. Cụ An càng cảm phục tác phong bình đẳng, chan hòa của cụ khách lạ. Đến chiều 25 tháng 8 năm 1945, thì xe con chở anh Trường Chinh là Tổng Bí thư của Đảng về bàn bạc công việc với ông cụ, Anh Trường Chinh đón Cụ về ở số nhà 48 Hàng Ngang viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập, rồi Cụ đã trịnh trọng đọc trong cuộc mít tinh khổng lồ có tới mấy chục vạn người của thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận, tuyên bố trước thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được thành lập. Cụ An hôm đó cũng đi dự mít tinh, khi nhìn lên lễ đài thì thấy rõ đó là ông cụ khách lạ ở nhà mình mấy hôm trước, hóa ra là cụ Hồ Chí Minh. Ít ngày sau, Bác Hồ trở lại thăm nhà cụ Nguyễn Thị An và thăm làng Phú Gia một lần nữa, sau đó ít lâu, Bác đi chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của dân tộc ta.” 28. GIẢN DỊ VÀ TIẾT KIỆM Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Khi làm việc ở văn phòng Bác, đôi khi bà còn đảm nhận việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều. Học tập Bác đức tính giản dị, tiết kiệm. Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá. Những năm tháng giúp việc ở văn phòng Bác tôi có những kỷ niệm không bao giờ quên. Bà còn kể rằng: Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công tác về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà: - Bác mệt không ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo. Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền nhỏm dậy bảo bà: - Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa. Câu chuyện bà kể khiến chúng tôi xúc động và thương Bác quá chừng. Bác thật giản dị và tiết kiệm, chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như cảnh nhà đông con mà còn túng thiếu. Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch nước có tác động lớn đến suy nghĩ của mỗi con người. Nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang mở cuộc vận động : “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, câu chuyện nhỏ trên đây chính là một nét đẹp về đạo đức Bác Hồ để chúng ta học tập. 29. TÔI TUYÊN BỐ HỒ CHÍ MINH KHÔNG THAM QUYỀN CỐ VỊ Hồ Chí Minh không phải là kẻ "tham quyền cố vị". Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái... - Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 31/10/1946 trước Quốc hội khóa I. Ngày nay, nhìn lại những nỗ lực để đi tới hoàn thiện cái mà Hồ Chí Minh mong muốn "Nước ta là một nước dân chủ", chúng ta càng thấy những giá trị cao cả, đích thực trong tư tưởng, nhất là trong thực hành dân chủ của Người. Thứ nhất, tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở quyết tâm tiến hành ngay cuộc tổng tuyển cử toàn quốc đầu tiên với các nguyên tắc: phổ thông, tự do trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đó là một cuộc tổng tuyển cử mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh mà cho tới nay Luật bầu cử vẫn cần học hỏi. Thứ hai, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc xây dựng và ban bố Hiến pháp1946, đặt viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Mọi quyền hạn đều của dân Cho đến trước cách mạng tháng 8/1945, Việt Nam chưa trải qua bất cứ chế độ dân chủ nào, do đó khi thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa thì cả chủ thể lãnh đạo, quản lý lẫn dân chúng đều chưa có trải nghiệm về dân chủ. Ảnh tư liệu Đọc lại bản Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam do Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng, tất cả những người nghiên cứu về dân chủ, dù khác nhau về tư tưởng và chính kiến, đều phải thừa nhận rằng: từ giữa thế kỷ XX, trong những điều kiện và hoàn cảnh để thực hành dân chủ vô cùng khó khăn, Việt Nam đã đạt tới những quan niệm dân chủ, được xác định trong Hiến pháp 1946, sánh ngang các thể chế dân chủ tiên tiến trên thế giới. Nội dung bản Hiến pháp ấy có những quy định mà Hiến pháp hiện hành của nước ta cũng chưa đạt tới. Một vấn đề nổi bật nhất là Hiến pháp 1946 đã xác nhận về mặt pháp lý quyền làm chủ của nhân dân và quy định những điều ràng buộc để đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ đó. Điều 1 Hiến pháp 1946 ghi: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Nhưng để thực hành quyền bính ấy lại phải thông qua việc kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Quản lý mọi mặt đất nước đều phải có sự ủy thác quyền lực của nhân dân cho cơ quan đại diện đảm trách. Lường trước nguy cơ lạm quyền của những người được ủy thác và cả những sai lầm khi cơ quan công quyền ra các quyết sách chính trị và ban hành các quy phạm pháp luật, nên nhất thiết nhân dân phải giữ lại một số quyền để mình trực tiếp tự quyết định và là quyết định tối hậu. Đó là quyền phúc quyết của nhân dân. Quan trọng nhất là việc xây dựng và sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp 1946 quy định Quốc hội được ủy thác quyền soạn thảo Hiến pháp, đặt ra pháp luật, sửa đổi Hiến pháp và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Nhưng "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia" và, việc sửa đổi Hiến pháp thì “Những điều thay đổi khi đã được nghị viện phê chuẩn phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Quyền phúc quyết không phải là việc đưa ra cho nhân dân tham gia, góp ý kiến hay đề nghị mà là quyền Hiến định, là điều bắt buộc các đạo luật và cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân phải tuân thủ. Quyền phúc quyết là thể chế hóa tư tưởng quan trọng nhất của Hồ Chí Minh về dân chủ: "Mọi quyền hạn đều của dân, việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Một khi quyền dân chủ đã được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia thì không còn vấn đề tranh cãi "thu hẹp" hay "mở rộng", ai có quyền "thu hẹp" hay "mở rộng" dân chủ mà là thực hiện pháp luật, tuân thủ pháp luật. Dân chủ bầu cử và ứng cử Tư tưởng dân chủ quan trọng và có ý nghĩa thiết thực nhất của Hồ Chí Minh là ở thực hành dân chủ. Thể chế dân chủ tuy là vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất nhưng việc thực hành dân chủ lại là điều cốt tử, là lẽ sống còn của chế độ dân chủ. Chỉ có thực hành dân chủ mới có thể biến dân chủ hình thức, dân chủ trên văn bản, trong các lời tuyên bố... thành dân chủ thực tế chứ không phải là những con chữ hoa mĩ nằm trên giấy. Một khi quyền dân chủ đã được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia thì không còn vấn đề tranh cãi "thu hẹp" hay "mở rộng", ai có quyền "thu hẹp" hay "mở rộng" dân chủ mà là thực hiện pháp luật, tuân thủ pháp luật. Để thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải: - Có đủ những văn bản luật đúng, phù hợp với thực tiễn và được lòng dân. Nhưng văn bản luật nào, nguyên tắc nào cũng đều do con người làm ra, nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền thông qua cơ quan đại diện được nhân dân bầu, soạn thảo và ban bố. Vậy thực hành dân chủ mấu chốt là ở vấn đề tự do, dân chủ bầu cử và ứng cử để chọn được người xứng đáng tham gia Quốc hội. Hồ Chủ tịch đã viết: "Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết". - Tổ chức bộ máy nhà nước để thực thi luật pháp là lực lượng đảm bảo thực hành dân chủ. Như Hồ Chí Minh đã nói, tổ chức ấy phải gọn nhẹ, sáng suốt, trong sạch, đủ năng lực và bản lĩnh để chấp hành pháp luật. Người trong bộ máy nhà nước phải được lựa chọn theo những tiêu chí cụ thể và công khai. Người đó phải có uy tín trong dân chúng, có năng lực đảm trách, điều hành một lĩnh vực của nền hành chính quốc gia, có liêm, chính (không nhằm mục tiêu thăng quan phát tài, tham nhũng và ăn hối lộ). Tóm lại là những người có “danh vọng, đạo đức, một mặt có thể giúp ý kiến cho Chính phủ, một mặt có thể điều khiển quốc dân”. Người được Quốc hội cử ra thành lập Chính phủ mới theo Hồ Chí Minh, phải tuyên bố về tư cách của bản thân và tư cách của từng thành viên Chính phủ. Không có chuyện "nhẹ trên nặng dưới" Nhớ lại phiên họp ngày 31/10/1946, kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I, sau khi được Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm cho thành lập Chính phủ mới, Hồ Chí Minh đã nói: “Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ "tham quyền cố vị". Bác Hồ từng nói quan tham vì dân dại. Dân biết hưởng quyền dân chủ do Hiến pháp quy định sẽ là đảm bảo chắc chắn cho chế độ dân chủ tốt đẹp đã được Hiến định trở thành hiện thực. "Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái... Tuy trong quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết...; Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà". Theo tư tưởng và cách hành xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì một xã hội chỉ thật sự dân chủ và pháp quyền khi cơ quan nhà nước là công bộc của dân. Tuyệt đối không cho bất kỳ ai, dù ở cấp bậc nào, người trong đảng hay ngoài đảng được sống ngoài vòng pháp luật theo kiểu "xử nội bộ", xuê xoa che mắt quần chúng, thiên vị "nhẹ trên nặng dưới". - Có Hiến pháp và pháp luật đúng và đủ, có cơ quan công quyền trong sạch, có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức mẫn cán, đồng thời phải có hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có cơ quan tư pháp thực sự "dĩ công vi thượng", không bị áp lực từ bất cứ ai, cơ quan nào. "Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp" (điều 69). - Giáo dục pháp luật và nâng cao văn hóa dân chủ cho tất cả mọi người. Nâng cao dân trí và nâng cao quan trí để tư tưởng dân chủ của Bác Hồ "Nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói" trở thành hiện thực. Dân có hiểu biết về pháp luật, biết hành xử theo pháp luật, đó là cơ sở để nhà nước thực thi đúng pháp luật. Bác Hồ từng nói quan tham vì dân dại. Dân biết hưởng quyền dân chủ do Hiến pháp quy định sẽ là đảm bảo chắc chắn cho chế độ dân chủ tốt đẹp đã được Hiến định trở thành hiện thực. Nguồn "VietNamNet" 30. TRONG ĐỜI TÔI, MỘT BÌNH MINH ĐÃ ĐẾN Tôi sinh năm 1907, cầm máy từ năm tuổi 25. Tôi ra đời vào buổi bình minh của thế kỷ này, hăm hở bước vào với một sức sống và ước mơ mãnh liệt. Từ ước mơ, tôi hành động không ngừng, không nghỉ. Cả một đời chụp ảnh liên tục! Nằm mê cũng thấy mình chụp ảnh. 50 lần đến chùa Hương. 20 lần lên Sa Pa. Và biết bao lần tới Hạ Long, Đà Lạt. Cả đời tôi yêu thương và gắn bó với quê hương, với con trâu, đồng ruộng, ao bèo, với chiếc xe đạp, với chiếc áo dài của cô gái Việt Nam!". Tôi cất tiếng khóc chào đời trong buổi đầu thế kỷ. Nhưng, bình minh của đời tôi thực sự bắt đầu khi được gặp Bác Hồ và được chụp ảnh Người!”. Ngày 2-9-1945, cả Hà Nội náo nức đón Lễ Độc lập. Ai cũng đứng vào hàng ngũ để được cuồn cuộn chảy về hướng Ba Đình, với cờ và khẩu hiệu trong tay. Tôi sẽ làm gì đây trong ngày hội lớn của dân tộc? Chụp, chụp và sẽ phải chụp thật nhiều ảnh. Cái đích của tôi là phải chụp được ảnh Cụ Hồ khi đang đọc Tuyên ngôn Độc lập, nếu không thì hỏng hết. Đúng 2 giờ chiều, từ chân lễ đài, tôi nhìn thấy các vị đại biểu dự lễ xuống xe và bước lên kỳ đài. Tôi thấy rất đông người và có nhiều người tôi không được biết tên... Tôi luýnh quýnh theo chân liền và hoàn toàn không bị ai ngăn cản. Trên kỳ đài, diện tích có vài mét vuông thôi mà hàng chục người đứng. Mọi người hình như chen vai thích cánh, hỏi như vậy làm sao tôi chụp được ảnh Cụ Hồ lúc đang đọc Tuyên ngôn Độc lập? Các vị dự lễ cũng rất tế nhị, khi tôi đang giơ máy lên, người đứng trước cũng khẽ nghiêng mình cho tôi chụp nhưng cái lưng khác lại che lấp ngay lập tức. Biết là không được, tôi vội tụt xuống cầu thang, đứng ôm máy dưới chân kỳ đài, nghĩ kế khác. Buổi lễ diễn ra trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ. Khi bài Tiến quân ca kết thúc, buổi lễ vừa dứt, tôi đã thấy một chiếc xe ô tô tiến sát vào chân kỳ đài. Xe đến đón Cụ Hồ, đi bên có ông Võ Nguyên Giáp. Đúng lúc Cụ Hồ và ông Giáp đã ngồi vào xe và xe chưa lăn bánh, tôi nhào tới đưa máy vào khoang cửa và nói: “Thưa Cụ, vừa rồi trên kỳ đài đông quá, con không chụp được ảnh Cụ. Xin Cụ cho phép con được lấy một hình của Cụ”. Cụ Hồ khẽ gật đầu. Nhưng lúc ấy Cụ Hồ đang đội mũ. Trời đã về chiều. Cái mũ cát vành rộng lại che đi mất nhiều ánh sáng. Tôi đánh liều:“Thưa Cụ, con muốn Cụ hạ cái mũ xuống ạ!”. Ông Giáp ngồi bên tủm tỉm cười như hiểu ý nguyện của tôi. Ông đưa tay lên hạ cái mũ của Cụ Hồ đang đội và nhìn tôi, nói: “Này, thì bỏ mũ xuống!”. Thế là tôi có được bức ảnh “độc nhất vô song” trong cả cuộc đời gắn bó với nghệ thuật nhiếp ảnh: Cụ Hồ ngồi bên có ông Giáp, cả hai gương mặt đều cương nghị, nhưng hiền hoà, có chút khắc khổ vì những lo toan cho vận nước ở giờ phút ngàn cân treo sợi tóc. Hơn nữa, đây là tấm ảnh chụp vào ngày lịch sử muôn đời ghi nhớ của dân tộc ta, ngay sau khi Cụ Hồ đọc Tuyên ngôn Độc Lập với quốc dân đồng bào cả nước và thế giới. Tôi đã chụp nhiều người, kể cả vua chúa. Tôi là người có may mắn chụp ba vua cuối cùng của Việt Nam là vua Khải Định, vua Thành Thái và vua Bảo Đại. Tôi chụp vua Thành Thái, một ông Vua yêu nước chống Pháp vào năm 1951, khi Pháp đưa ông vua ấy từ nơi đảo xa trở về. Khi ấy vua Thành Thái đã khoảng 80 tuổi, một mắt đã bị kéo màng. Cả những người khác nữa, tôi chụp nhiều, nhiều lắm, nhưng không một ai có cặp mắt tinh anh và đặc biệt như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một phòng triển lãm ảnh về ngày Lễ Độc lập đã được tổ chức tại phố Tràng Tiền - Hà Nội ngay sau ngày 2-9-1945. Một cán bộ Việt Minh đồng thời cũng là bạn tôi thấy tôi có bức ảnh quý đó nên vồ vập liền. Ông ta treo bức ảnh Cụ Hồ và ông Võ Nguyên Giáp ở chỗ trang trọng nhất của phòng triển lãm. Thời đó, mỗi khi có triển lãm, nhất là những triển lãm về đấu tranh cho độc lập tự do, dân chúng thường đi xem rất đông, cho nên bức ảnh nói trên được nhiều người biết đến. Riêng tôi, do thời cuộc, đã để thất lạc cả phim tấm ảnh gốc đó. Nhưng may mắn sao, tôi đã gặp lại tấm ảnh đáng quí nhất của đời mình được in trong một cuốn hồi ký viết gần đây của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Và tôi đã “sao” lại tấm ảnh, tác phẩm của chính mình. Khách đến thăm nhà không ai không ngước mắt nhìn lên tấm ảnh này mà gia đình tôi đã trân trọng treo ở giữa phòng khách. Những đốm nắng chiều rơi trên khuôn mặt hai nhà cách mạng trở thành những yếu tố thật kỳ diệu như khắc hoạ một thời gian khó và quyết liệt của cả một dân tộc mà Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhiều vị khác là những nhân vật đại diện”. Võ An Ninh kể (Trích từ sách: Còn mãi những khoảnh khắc, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 1998) Sẽ tiếp tục cập nhật....